Thơ » Trung Quốc » Thịnh Đường » Đỗ Phủ » Phiêu bạc tây nam (760-770)
Đăng bởi tôn tiền tử vào 13/03/2015 22:42
旄頭彗紫微,
無復俎豆事。
金甲相排蕩,
青衿一憔悴。
嗚呼已十年,
儒服弊於地。
征夫不遑息,
學者淪素志。
我行洞庭野,
欻得文翁肆。
侁侁胄子行,
若舞風雩至。
周室宜中興,
孔門未應棄。
是以資雅才,
渙然立新意。
衡山雖小邑,
首唱恢大義。
因見縣尹心,
根源舊宮閟。
講堂非曩構,
大屋加塗墍。
下可容百人,
牆隅亦深邃。
何必三千徒,
始壓戎馬氣。
林木在庭戶,
密幹疊蒼翠。
有井朱夏時,
轆轤凍階戺。
耳聞讀書聲,
殺伐災彷彿。
故國延歸望,
衰顏減愁思。
南紀改波瀾,
西河共風味。
採詩倦跋涉,
載筆尚可記。
高歌激宇宙,
凡百慎失墜。
Mao Đầu tuệ Tử Vi,
Vô phục trở đậu sự.
Kim giáp tương bài đãng,
Thanh khâm nhất tiều tuỵ.
Ô hô dĩ thập niên,
Nho phục tệ ư địa.
Chinh phu bất hoàng tức,
Học giả luân tố chí.
Ngã hành Động Đình dã,
Hốt đắc Văn Ông tứ.
Sân sân trụ tử hành,
Nhược vũ phong vu chí.
Chu thất nghi trung hưng,
Khổng môn vị ưng khí.
Thị dĩ tư nhã tài,
Hoán nhiên lập tân ý.
Hành Sơn tuy tiểu ấp,
Thủ xướng khôi đại nghĩa.
Nhân kiến huyện doãn tâm,
Căn nguyên cựu cung bí.
Giảng đường phi nẵng cấu,
Đại ốc gia đồ ký.
Hạ khả dung bách nhân,
Tường ngung diệc thâm thuý.
Hà tất tam thiên đồ,
Thuỷ áp nhung mã khí.
Lâm mộc tại đình hộ,
Mật cán điệp thương thuý.
Hữu tỉnh chu hạ thì,
Lộc lư đống giai sĩ.
Nhĩ văn độc thư thanh,
Sát phạt tai phảng phất.
Cố quốc diên quy vọng,
Suy nhan giảm sầu tứ.
Nam kỷ cải ba lan,
Tây hà cộng phong vị.
Thái thi quyện bạt thiệp,
Tải bút thượng khả ký.
Cao ca kích vũ trụ.
Hoàn bách thận thất truỵ.
Sao Mao Đầu lấn chỗ của sao Tử Vi,
Nên không khôi phục lại việc tế lễ.
Bộ áo giáp vàng của quân nhân thì chau chuốt (trọng võ),
Trong khi áo xanh của anh học trò thì nhầu nát (khinh văn).
Than ôi đã mười năm rồi,
Áo của nhà nho bị chà dưới đất.
Lính tráng đã chẳng được nghỉ ngơi,
Mà học trò cũng mất hết ý chí.
Tôi đi ngang cánh đồng vùng hồ Động Đình,
Bỗng hiểu được nỗi lòng Văn Ông.
Học trò đi lại tấp nập,
Tưởng như đi về từ nơi hóng mát ở đền Vũ Vu.
Nhà Chu xứng đáng được phục hồi,
Cửa Khổng không nỡ vất bỏ.
Đó chính là dùng cái vốn quý báu,
Mà phát minh ra cái ý mới.
Hành Sơn tuy là một huyện nhỏ,
Mà lại đứng đầu trong việc nêu cao nghĩa lớn.
Nhân vì thấy tấm lòng của quan đầu huyện,
Nguồn gốc là ở bài “bí cung” thời xưa.
Giảng đường không phải là kiến trúc cũ,
Mái nhà lớn được tô điểm thêm.
Dưới mái có thể chứa hàng trăm người,
Tường vách thêm quanh co hun hút.
Cần gì phải mong tới ba ngàn học trò,
Mới đầu hãy cứ làm dịu không khí chiến tranh đi đã.
Rừng cây ở ngay trước cửa ngõ đây,
Thân cây chen chúc tạo ra cái vẻ xanh ngắt.
Vào mùa hè nóng rực có giếng nước,
Ròng rọc kín nước giếng bị rỉ sét trên ghè đá.
Tai nghe tiếng đọc sách,
Mà tai vạ chém giết phảng phất đâu đây.
Làng cũ cứ mong về hoài,
Lòng buồn cùng với sắc mặt bơ phờ.
Chuyến đi về phía nam thay đổi bao nhiêu lớp sóng,
Sông vùng tây gom lại bao nhiêu là mùi gió.
Cứ tất tả nhặt thơ khiến mỏi mệt,
Sức bút này hãy còn ghi được.
Hát vang lên cho um trời đất,
Cuối cùng là đề phòng cho khỏi lạc mất.
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 14/03/2015 22:42
Kẻ dưới lấn áp trên,
Việc cúng tế chẳng thiết.
Giáp vàng cứ khoe khoang,
Thụng xanh đều nhầu nát.
Than ôi đã mười năm,
Áo nho rơi xuống đất.
Lính tráng không nghỉ ngơi,
Học trò ý ngờ nghệt.
Tôi qua ruộng Động-đình,
Bỗng hiểu Văn ông nết.
Rầm rập kẻ học đi,
Như Vũ vu hóng mát.
Nhà Chu nên phục hưng,
Cửa Khổng chưa đáng vất.
Chính qua cái hay này,
Ý mới bỗng hoàn tất.
Hành Sơn ấp nhỏ nhoi,
Nêu nghĩa lớn đứng nhất.
Quan huyện, nhân hiểu lòng,
Bí cung gốc y hệt.
Xưa không có giảng đường,
Nhà lớn thêm chấm phết.
Dưới mái chứa trăm người,
Góc tường thêm cong quặt.
Cần gì ba ngàn người,
Càng làm cho ngột ngạt.
Ngay trước cửa, rừng cây,
Thân cây chen xanh ngát.
Hè nóng có giếng khơi,
Kè đá, guồng rỉ sét.
Tai nghe tiếng học bài,
Thoảng như nạn chém chặt.
Làng cũ mong trở về,
Lòng buồn hiện ra mặt.
Lối nam sóng đổi thay,
Sông tây mùi thêm thắt.
Bút chép vẫn còn ghi,
Lượm thơ mỏi đi nhặt.
Ca vang răn khắp nơi,
Cần lo phòng lạc mất.