登高

風急天高猿嘯哀,
渚清沙白鳥飛回。
無邊落木蕭蕭下,
不盡長江滾滾來。
萬里悲秋常作客,
百年多病獨登臺。
艱難苦恨繁霜鬢,
潦倒新停濁酒杯。

 

Đăng cao

Phong cấp, thiên cao, viên khiếu ai,
Chử thanh, sa bạch, điểu phi hồi.
Vô biên lạc mộc tiêu tiêu há,
Bất tận trường giang cổn cổn lai.
Vạn lý bi thu thường tác khách,
Bách niên đa bệnh độc đăng đài.
Gian nan khổ hận phồn sương mấn,
Lạo đảo tân đình trọc tửu bôi.

 

Dịch nghĩa

Gió thổi gấp, trời cao, vượn kêu buồn,
Bến nước trong, cát trắng, chim bay lượn vòng.
Vô vàn lá xào xạc rụng xuống,
Dòng sông dài cuồn cuộn chảy vô tận.
Xa nhà vạn dặm, vẻ thu hiu hắt, mãi vẫn làm khách xứ người,
Cuộc đời lắm bệnh, một mình lên đài cao.
Gian nan, khổ hận, tóc mai dày nhuốm màu sương gió,
Thân già ốm yếu nên mới phải thôi cạn chén rượu đục.


Bài thơ này tác giả làm dịp tiết trùng dương năm Đại Lịch thứ 2 (767) khi ở Quỳ Châu, chỉ trước khi qua đời khoảng 3 năm. Theo phong tục của người thời đó, đến ngày trùng dương thường lên cao uống rượu. Bài thơ thông qua miêu tả cảnh sắc mùa thu lúc lên cao, diễn tả tâm trạng buồn đau lúc già bệnh mà thân phiêu bạc xa quê đã lâu ngày.

Bài thơ này được sử dụng làm bài đọc thêm trong chương trình SGK Văn học 10 giai đoạn 1990-2006.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 5 trang (41 bài trả lời)
[1] [2] [3] [4] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Bản dịch của Phí Minh Tâm

Trời cao gió lộng vượn ỷ ôi
Cồn trong cát trắng chim bay hồi
Lá rừng trút đổ không ranh giới
Sông dài vô tận cuồn cuộn trôi
Thu buồn gợi nhớ lòng viễn khách
Già bịnh đài cao quyết chẳng thôi
Gian nan khổ hận tóc mai bạc
Vất vả từ đi chén rượu bồi.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
214.10
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nam Trân

Gió gấp trời cao vượn nỉ non,
Bến trong cát trắng, lượn chim cồn.
Rào rào lá trút rừng cây thẳm,
Cuồn cuộn sông về sóng nước tuôn.
Thu quạnh nghìn khơi lòng khách não,
Đài cao trăm bệnh chiếc thân mòn.
Gian nan khổ hận đầu thêm bạc,
Quặt quẹo đành kiêng chén giải buồn.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
113.91
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Hải Đà

Vượn hú, trời cao, gió thổi nhanh
Chim về qua bến cát sông xanh
Chơi vơi lá rụng, cành lay lắt
Cuồn cuộn sông trôi, nước dập dềnh
Ghé bến thu sầu đau dạ khách
Lên non tuổi hạc xót thương mình
Phơ phơ tóc trắng đời chao đảo
Lắm nỗi chua cay, rượu phải đình.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
93.67
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Tản Đà

Gió mạnh, trời cao, vượn rúc sầu
Bến trong, cát trắng, lượn đàn âu.
Lào rào lá rụng, cây ai đếm,
Cuồn cuộn sông dài, nước đến đâu.
Muôn dặm quê người thu não cảnh,
Một thân già yếu bước lên lầu.
Khó khăn ngao ngán bao là nỗi,
Rượu uống không ngon chóng bạc đầu.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
164.19
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Khương Hữu Dụng

Gió mạnh trời cao vượn hú dài,
Bến trong cát trắng lượn chim giời.
Mênh mang lá rụng rào rào đổ,
Hun hút sông dài cuộn cuộn trôi.
Muôn dặm buồn thu thường lẻ khách,
Một thân già bệnh bước lên đài.
Gian nan khổ hận đầu phau bạc,
Ma bệnh theo hành rượu tạm ngơi.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
23.50
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của mailang

Gío bạt tung trời, vượn tái tê,
Bãi trong cát trắng sải chim về.
Sông to cuồn cuộn vào vô tận,
Lá úa lao xao rụng tứ bề.
Ở khách, dặm ngàn thu thổn thức,
Lên đài, trọn kiếp bệnh trầm mê,
Gian nan khổ hận nhòa sương tóc,
Rượu mới ngưng sao lảo đảo hề!

44.25
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Dịch nghĩa Đăng cao của Đỗ Phủ .

Trời cao , gió mạnh , tiếng vượn kêu ai oán .
Bến trong , cát trắng , chim bay về  .
Khắp rừng lá trút ào ào như không bao giờ hết ,
Sông dài  nước chảy cuồn cuộn  không ngừng .
Ở nơi xa xôi ta thường làm khách thương mùa thu buồn .
Tuổi già lắm bệnh , một mình bước lên đài cao .
Hận đời gian nan , mái tóc càng thêm bạc trắng .
Vất vả mãi gần đây mới bỏ được cái thú uống rượu .

Dịch thơ :
Gió giật trời cao  vượn hú sầu ,
Bến trong trắng cát chim về đâu ?
Ào ào lá trút chừng không dứt
Cuồn cuộn sông dài nước chảy mau .
Xa vắng thu buồn làm khổ khách *
Tuổi cao tật bệnh một mình đau .
Gian nan khổ hận đầu thêm bạc .
Cố mãi rượu xoàng ta trốn nhau !

--------------
Lời bàn : Dịch thơ là công việc khó khăn . Muốn dịch hay ta phải dịch nghĩa cho thật chuẩn , sau đó cùng với cách cảm của mỗi người mà dịch thơ có thể phóng khoáng khác nhau , cốt là cảm nhận đúng tác giả . Có người nói : ngữ pháp là kẻ thù của thi ca , có lẽ đúng . Ngay khi dịch nghĩa bài thơ này , ở câu 5 nếu lấy "khách" làm khách thể của "tác" , và câu 6 dịch theo nghĩa bóng thì cũng có thể dịch như sau :
Ở nơi xa nhà vạn dặm , mùa thu buồn thường làm khổ khách ,
Bệnh tật tuổi già nào ai gánh đỡ được đâu !
Riêng người dịch bài này vẫn muốn nghiêng về cách dịch sau , vì nó hợp với hoàn cảnh của tác giả hơn . Xin được chia sẻ cùng bạn đọc .

24.50
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Pang De

Gió gấp trời cao vượn ỉ ôi,
Bến trong cát trắng cánh chim hồi.
Xạc xào lá rụng không biên giới,
Cuồn cuộn sông về chẳng lúc thôi.
Vạn dặm thu sầu thường nhiễu khách,
Trăm năm thân yếu vẫn leo đồi.
Gian nan khổ hận đầu thêm bạc
Xiêu đảo mới dừng chén rượu hôi.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Thưởng thức bài "Đăng Cao 登高" của Đỗ Phủ.

1. Trước hết, theo Tiêu Đồng nên sửa lại phiên âm chữ 下 ở câu thứ 3, chữ thứ 7 là "há". Và sửa thêm "trường giang" (câu thứ 4) là "Trường Giang", vì ở đây sông là sông Trường Giang chứ không phải là con sông dài bất kỳ.
2. Tiêu Đồng Vĩnh Học xin cung cấp phần chú thích và phần bình giải bài thơ “Đăng cao” được lấy trong sách “Thơ Đường bình giải” của Nguyễn Quốc Siêu để bạn đọc rộng đường tham khảo:

Giải đề: Bài thất luật này Đỗ Phủ viết tại Biện Châu (Biện Châu nay thuộc về địa phận các huyện: Phụng Tiết, Vu Khê, Vu Sơn, Vân Dương tỉnh Tứ Xuyên) vào mùa thu năm Đại Lịch thứ 2 (767). Bốn câu đầu viết về ngày tết Trùng Cửu lên cao thấy những gì và đã vẽ nên cảnh thu, tiếng thu mênh mông bất tận. Bốn câu sau bày tỏ cảm xúc “vạn dặm thu buồn” của ông già bệnh tật sống phiêu bạt tha hương. Qua đó cũng biểu đạt đan xen thế vận gian nan của đất nước. Người xưa rất cảm, rất thích bài thơ này và coi là bài thất ngôn luật thi số một trong tập thơ Đỗ Phủ. Cũng có người đề cao hơn: là bài thơ đứng đầu trong tất cả những bài thất luật từ xưa đến nay.

登高
風急天高猿嘯哀,
渚清沙白鳥飛回。
無邊落木蕭蕭下,
不盡長江滾滾來。
萬里悲秋常作客,
百年多病獨登臺。
艱難苦恨繁霜鬢,
潦倒新停濁酒杯。

Phiên âm:
Đăng cao (1)
Phong cấp, thiên cao, viên khiếu ai,
Chử thanh, sa bạch, điểu phi hồi.
Vô biên lạc mộc tiêu tiêu há,
Bất tận Trường Giang cổn cổn lai.
Vạn lý bi thu thường tác khách, (2)
Bách niên đa bệnh độc đăng đài. (3)
Gian nan khổ hận phồn sương mấn, (4)
Lạo đảo tân đình trọc tửu bôi. (5)

Chú thích:

(1) Đăng cao: Đây là bài thơ bày tỏ cảm xúc lúc trèo lên cao vào ngày tết Trùng Cửu (mồng 9 tháng 9 âm lịch, còn gọi là tết Trùng Dương). Tào Phi trong bài “Cửu nhật dữ Chung Do thư” có viết: “Năm qua tháng lại, bỗng tới mồng 9 tháng 9. Chín là số dương (số nhiều), mà tháng và ngày cùng ứng thì tục lệ đón mừng là để hợp với sự trường cửu, cho nên bày tiệc hội”. Ở Trung Quốc tục lệ có từ cổ xưa là đến ngày lễ tết này thì trèo trên đồi cao và cắm cánh thù du lên đầu hoặc mình nhằm tránh nạn dịch.
(2) Bi thu: Trong bài “Cửu biện” của Tống Ngọc (Tr CN 290 - Tr CN 223), nhà thơ lớn người nước Sở) viết: “Bi tai, thu chi vi khí dã, tiêu sắt hề thảo mộc dao lạc nhi biến suy, liêu lật hề nhược tại viễn hành” (Nghĩa là: Buồn thay khí thu, xào xạc cỏ cây trút lá mà tàn, thê lương lạnh lẽo như trên chặng đường xa). Sau Tống Ngọc, các nhà thơ nhà văn thời xưa cũng làm nhiều bài về thu buồn. Vạn lí: Vạn dặm, ở đây chỉ xa quê. Khách: Người li hương.
(3) Bách niên: Nói về một đời người: Người xưa coi thượng thọ là 100 tuổi.
(4) Sương mấn: Tóc mai như sương, sợi trắng nhiều hơn đen.
(5) Lạo đảo: Đau yếu (Đây là từ đa nghĩa, Từ Hải coi từ này trong câu thơ của Đỗ Phủ mang nghĩa: ốm yếu. Đường thi tam bách thủ toàn dịch – NXB Nhân dân Quý Châu cũng chú thích là đau ốm quặt quẹo, do bị lao phổi).

Dịch nghĩa:

Gió (thu lạnh) thốc, trời cao (xanh), tiếng vượn kêu sầu thảm,
Bến nước trong, bãi cát trắng, chim bay lượn.
Rừng cây mênh mông xào xạc trút lá,
Con sông Trường Giang mênh mông cuồn cuộn đổ về.
Thường phải tha hương nơi đất khách xa muôn dặm mà gặp cảnh thu buồn,
Lại còn cuối đời lắm bệnh tật nữa chứ, lúc này ta một thân một mình trèo lên đài cao.
Thời thế gian nan, tiếc thương tóc mai đã nhuốm sương,
Ốm đau quặt quẹo không còn gần với chén rượu được nữa.

Lời bình:

Bốn câu đầu là bức tranh thiên nhiên thảm đạm, với cảnh gió thốc vượn kêu, lá rụng và cả sóng nước cuồn cuộn mà quạnh vắng. Đó cũng là bức tranh về xã hội đương thời. Bốn câu sau nói về cảnh ngộ nhà thơ, là lời than về nỗi buồn đau tích tụ. Liên thứ ba: Vạn lí … đăng đài thật là xúc tích mà hàm nhiều tầng nghĩa, bao đời nay các nhà bình thơ rất thán phục.
Về nghệ thuật, điểm đặc sắc thứ nhất là tình và cảnh đã hòa quyện làm một, không thể chỉ ra là nhân cảnh mà sinh tình hay nhân tình mà sinh cảnh. Hãy quay lại bốn câu đầu với cảnh tượng thê lương do lên cao mà thấy được, đó cũng chính là nỗi đau về nhà về nước và về mình. Điểm thứ hai là lời thơ hàm súc, sâu lắng và tinh luyện, nhất là với liên thứ ba. Điểm thứ ba là rất đối chỉnh, cách luật chặt chẽ. Ở đây, ta thấy cả 8 câu đều đối, 4 liên đối rất chỉnh mà lại rất tự nhiên. Hồ Ứng Lân đời Minh cho rằng bài thơ này: rất có sức nặng mà tỏa sáng muôn xa.


Nguồn: Nguyễn Quốc Siêu, Thơ Đường bình giải, NXB Giáo dục, 2005.
Trung tình vô hạn bằng thuỳ tố,
Minh nguyệt thanh phong dã bất tri.
25.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Bùi Khánh Đản

Tiếng vượn kêu thương, gió lộng trời,
Chim bay, cát trắng, bãi xanh phơi.
Bạt ngàn cây gãy tơi bời rụng,
Dằng dặc sông dài cuộn cuộn trôi.
Muôn dặm sầu thu thêm não khách,
Một thân đa bệnh bước lên đài.
Buồn phiền vất vả phai màu tóc,
Chén rượu vừa ngưng, lảo đảo rồi.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Trung tình vô hạn bằng thuỳ tố,
Minh nguyệt thanh phong dã bất tri.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời

Trang trong tổng số 5 trang (41 bài trả lời)
[1] [2] [3] [4] ... ›Trang sau »Trang cuối