25.00
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong
Thời kỳ: Vãn Đường
3 bài trả lời: 3 bản dịch

Đăng bởi tôn tiền tử vào 30/11/2014 22:18

題宣州開元寺,寺置於東晉時

南朝謝眺城,
東吳最深處。
亡國去如鴻,
遺寺藏煙塢。
樓飛九拾尺,
廊環四百柱。
高高下下中,
風繞松桂樹。
青苔照朱閣,
白鳥兩相語。
溪聲入曾夢,
月色暉粉塌。
悅景無旦夕,
憑欄有今古。
留我酒壹樽,
前山看春雨。

 

Đề Tuyên Châu Khai Nguyên tự, tự trí ư Đông Tấn thì

Nam triều Tạ Diễu thành,
Đông Ngô tối thâm xứ.
Vong quốc khứ như hồng,
Di tự tàng yên ổ.
Lâu phi cửu thập xích,
Lang hoàn tứ bách trụ.
Cao cao hạ hạ trung,
Phong nhiễu tùng quế thụ.
Thanh đài chiếu chu các,
Bạch điểu lưỡng tương ngữ.
Khê thanh nhập tằng mộng,
Nguyệt sắc huy phấn tháp.
Duyệt cảnh vô đán tịch,
Bằng lan hữu kim cổ.
Lưu ngã tửu nhất tôn,
Tiền sơn khán xuân vũ.

 

Dịch nghĩa

Thành của Tạ Diễu thời Nam triều làm thái thú,
Nằm ở nơi sâu thẳm của nước Đông Ngô.
Khi nước Nam Tề mất, ông bỏ đi lưu lạc như cánh chim hồng,
Để lại chùa (Vĩnh An) lâu đài ẩn trong sương khói.
Gác chùa cao chín mươi thước,
Với hành lang gồm bốn trăm cột vòng quanh.
Hết cao lại thấp,
Gió vờn các cây thông và quế.
Bóng gác son phản chiếu trên rêu xanh,
Hai chim trắng chuyện trò với nhau.
Tiếng suối reo như từng nghe trong mộng,
Ánh trăng soi phấn hoa rơi rụng.
Dù cảnh buổi sáng hay chiều cũng chẳng đẹp lòng,
Khi đứng tựa lan can có từ xưa tới nay mà ngắm.
Lưu luyến ta chỉ có chén rượu này,
Khi ngắm nhìn mưa rơi trên núi trước mặt.


Đỗ Mục làm bài này khoảng năm 838, lúc đó ông làm đoàn luyện phán quan ở Tuyên Châu (nay là huyện Tuyên Thành, tỉnh An Huy). Chùa Khai Nguyên nguyên là chùa Vĩnh An, dựng thời Đông Tấn (317-420) ở Tuyên Châu, đến đời Đường được đổi tên thành chùa Khai Nguyên.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Thành xưa Tạ Diễu thuở Nam triều,
An toạ vùng Đông Ngô thẳm sâu.
Người mất nước, như hồng hạc tản,
Bỏ trong sương khói bóng chùa cao.
Lầu vươn chín chục thước trên không,
Hiên gác bốn trăm cột lượn vòng.
Hết thấp đến cao, lờ lững vậy,
Gió vờn xào xạc quế cùng thông.
Gác son soi bóng trên rêu biếc,
Chim trắng chung đôi ríu rít cùng.
Tiếng suối reo chừng như giữa mộng,
Dưới trăng hoa rụng phấn mơ mòng.
Dù chiều hay sáng, dạ nào vui,
Khi tựa lan can cổ ngắm ngoài.
Lưu luyến, ta còn duy chén rượu,
Nhìn mưa xuân toả trước non phơi.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Thời Nam triều thành xưa Tạ Diễu
Nằm trong vùng sâu thẳm Đông Ngô
Khi nước mất, ông giang hồ
Chùa xưa để lại lờ mờ trong sương
Chín mươi thước gác vươn cao ngất
Với bốn trăm cây cột vòng quanh
Hết cao lại thấp thoả tình
Gió vờn thông quế an lành phiêu phiêu
Bóng gác son trên rêu phản chiếu
Chim trắng đôi líu ríu chuyện trò
Suối như trong mộng từng reo
Ánh trăng soi phấn hoa theo cánh tàn
Khi tựa cổ lan can đứng ngắm
Cảnh sáng chiều cũng chẳng đẹp gì
Luyến lưu ta có chén ni
Nhìn mưa trên núi nhâm nhi giải sầu.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Thành xưa Tạ Diễu Nam triều,
Nằm nơi sâu thẳm của miền Đông Ngô.
Mất Tề, ông khởi giang hồ,
Vĩnh An để lại chùa mờ khói sương.
Chùa cao chín chục thước vươn,
Bốn trăm cây cột quanh vòng hành lang.
Hết cao lại thấp từng hàng,
Các cây thông, quế miên man gió vờn.
Gác son rêu chiếu xanh dờn,
Hai con chim trắng lượn vờn với nhau.
Suối reo nghe tiếng mộng sâu,
Phấn hoa rơi rụng trăng soi bên dòng.
Sáng chiều cảnh chẳng đẹp lòng,
Lan can đứng tựa mà trông cũ rồi.
Luyến lưu ta chén rượu thôi,
Nhấp môi nhìn trước mưa rơi non mờ.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời