74.71
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Cổ phong (cổ thể)
Thời kỳ: Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn
3 bài trả lời: 3 bản dịch
4 người thích

Đăng bởi Vanachi vào 19/02/2006 16:52, đã sửa 2 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 19/02/2006 16:56

悲懼

自從別後風沙隴
明月知君何處宿
古來征戰場
萬里無人屋
風熬熬兮打得人顏憔
水深深兮怯得馬蹄縮
戍夫枕鼓臥龍沙
戰士抱鞍眠虎陸
今朝漢下白登城
明日胡窺青海曲
青海曲青山高復低
青山前青溪斷復續
青山上雪蒙頭
青溪下水沒腹
可憐多少鐵衣人
思歸當此愁顏蹙
錦帳君王知也無
艱難誰為畫征夫
料想良人經歷處
蕭關角瀚海隅
霜村雨店
虎落蛇區
風餐露宿
雪脛冰鬚
登高望雲色
安復不生愁
自從別後東南徼
東南知君戰何道
古來征戰人
性命輕如草
鋒刃下溫溫挾纊主恩深
時刻中歷歷橫戈壯士夭
祈山舊塚月茫茫
淝水新墳風裊裊
風裊裊空吹死士魂
月茫茫曾照征夫貌
征夫貌兮誰丹青
死士魂兮誰哀弔
可憐爭鬪舊江山
行人過此情多少
古來征戰幾人還
班超歸時鬢已斑
料想良人馳騁外
三尺劍一戎鞍
秋風沙草
明月關山
馬頭鳴鏑
城上緣竿
功名百忙裏
勞苦未應閒

 

Bi cụ

Tự tòng biệt hậu phong sa lũng
Minh nguyệt tri quân hà xứ túc
Cổ lai chinh chiến trường
75. Vạn lý vô nhân ốc
Phong ngao ngao hề đả đắc nhân nhan tiều
Thuỷ thâm thâm hề khiếp đắc mã đề súc
Thú phu chẩm cổ ngoạ Long sa
Chiến sĩ bão yên miên hổ lục
80. Kim triêu Hán há Bạch Đăng thành
Minh nhật Hồ khuy Thanh Hải khúc
Thanh Hải khúc thanh sơn cao phục đê
Thanh sơn tiền thanh khê đoạn phục tục
Thanh sơn thượng tuyết mông đầu
85. Thanh khê hạ thuỷ một phúc
Khả liên đa thiểu thiết y nhân
Tư quy đương thử sầu nhan xúc
Cẩm trướng quân vương tri dã vô
Gian nan thuỳ vị hoạ chinh phu
90. Liệu tưởng lương nhân kinh lịch xứ
Tiêu Quan giác hãn hải ngung.
Sương thôn vũ điếm
Hổ lạc xà khu
Phong xan lộ túc
95. Tuyết hĩnh băng tu
Đăng cao vọng vân sắc
An phục bất sinh sầu
Tự tòng biệt hậu đông nam kiếu
Đông nam tri quân chiến hà đạo
100. Cổ lai chinh chiến nhân
Tính mệnh khinh như thảo
Phong nhận hạ ôn ôn hiệp khoáng chủ ân thâm
Thời khắc trung lịch lịch hoành qua tráng sĩ yểu
Kỳ sơn cựu trủng nguyệt mang mang
105. Phì thuỷ tân phần phong niểu niểu
Phong niểu niểu không xuy tử sĩ hồn
Nguyệt mang mang tằng chiếu chinh phu mạo
Chinh phu mạo hề thuỳ đan thanh
Tử sĩ hồn hề thuỳ ai điếu
110. Khả liên tranh đấu cựu giang sơn
Hành nhân quá thử tình đa thiểu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hoàn
Ban Siêu quy thời mấn dĩ ban
Liệu tưởng lương nhân trì sính ngoại
115. Tam xích kiếm nhất nhung yên
Thu phong sa thảo
Minh nguyệt quan sơn
Mã đầu minh đích
Thành thượng duyên can
120. Công danh bách mang lý
Lao khổ vị ưng nhàn

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Đoàn Thị Điểm, Phan Huy Ích

65. Chàng từ đi vào nơi gió cát,
Đêm trăng này nghỉ mắt phương nao?
Xưa nay chiến địa dường bao,
Nội không muôn dặm xiết sao dãi dầu.
Hơi gió lạnh người rầu mặt dạn,
70. Dòng nước sâu ngựa nản chân bon.
Ôm yên gối trống đã chồn.
Nằm vùng cát trắng ngủ cồn rêu xanh.
Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại,
Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua.
75. Hình khe thế núi gần xa,
Đứt thôi lại nối thấp đà lại cao.
Sương đầu núi buổi chiều như gội,
Nước lòng khe nẻo lội còn sâu.
Não người áo giáp bấy lâu,
80. Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây.
Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ,
Mặt chinh phu ai vẽ cho nên?
Tưởng chàng rong ruổi mấy niên,
Chẳng nơi hãn hải thì miền Tiêu Quan.
85. Đã trắc trở đòi ngàn xà hổ,
Lại lạnh lùng những chỗ sương phong.
Lên cao trông thức mây lồng,
Lòng nào là chẳng động lòng bi thương?
Chàng từ chốn đông nam khơi nẻo,
90. Biết nay chàng tiến thảo nơi đâu.
Những người chinh chiến bấy lâu,
Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây.
Nức hơi mạnh ân dày từ trước,
Trải chốn nghèo tuổi được bao nhiêu.
95. Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo,
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.
Chinh phu tử sĩ mấy người,
100. Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn?
Dấu binh lửa nước non như cũ,
Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương.
Phận trai già ruổi chiến trường,
Chàng Siêu tóc đã điểm sương mới về.
105. Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ,
Ba thước gươm một cỗ nhung yên.
Xông pha gió bãi trăng ngàn,
Tên reo đầu ngựa giáo dan mặt thành.
Áng công danh trăm đường rộn rã,
110. Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
45.00
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Cù An Hưng

Từ khi xa cách đến nay
Phong sương vách núi cõi ngoài ra sao
75. Đêm trăng tá túc nơi nao
Sa trường muôn dặm tìm đâu mái nhà
Nổi trôi giữa trận phong ba
Vó câu tuấn mã nước nhòa đẩy lui
Long Sa gối trống ngủ vùi
80. Ôm yên Hổ Lục khốn đời chiến binh
Hán quân nay xuống Bạch thành
Người Hồ mai đã phục Thanh hải chờ
Cảnh vùng Thanh hải nhấp nhô
Núi khe chắp nối tỏ mờ vây quanh
85. Tuyết ngập đầu, vượt non xanh
Nước lên tới bụng, suối ghềnh qua mau
Những ai mang áo giáp lâu
Mong ngày về mãi ngậm đau héo dần
Vua nơi trướng gấm hay chăng
90. Khốn cùng suốt kiếp ai bằng chinh phu
Chàng phiêu bạt khắp biên khu
Tiêu quan, Hãn hải, mưa mù điếm canh
Thân nơi hang ổ, cọp rình
Rừng già rắn độc hoành hành chẳng thôi
95. Ăn… gió vỗ, ngủ… sương phơi
Tuyết che ống quyển giá vùi chòm râu
Những khi lên ngóng mây cao
Riêng chàng chịu đựng nỗi sầu tha hương
Từ ngày tiến hướng đông nam
100. Nơi đâu gió bụi sa trường? Ai hay
Chiến chinh là thế, xưa nay
Mạng người ví ngọn cỏ may khác gì
Dưới rừng thép nhọn bước đi
Xông pha ấm bụng chỉ vì ân sâu
105. Biết chăng! thời khắc qua mau
Gươm vung chết yểu trước sau bao người
Núi Kỳ mồ cũ trăng soi
Bãi Phì mả mới nằm phơi bốn mùa
Kìa hồn tử sĩ gió đưa
110. Trăng thanh dõi bóng lờ mờ chinh phu
Chinh phu! ai mạc mặt cho
Chiêu hồn tử sĩ bây giờ là ai
Núi sông! tranh giữ cho đời
Hành quân thấy cảnh ngậm ngùi bước đi
115. Chiến chinh hiếm kẻ trở về
Ban Siêu tóc cũng bạc khi khải hoàn
Hiểm nghèo thay chốn quan san
Thước gươm yên ngựa, đời chàng chiến binh
Cỏ thu gió cát vây quanh
120. Tên reo đầu ngựa phá thành vịn thang
Đường công danh lắm gian nan
Bám theo khốn khổ, mong nhàn khó thay

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
23.00
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Đất Văn Lang

Chàng từ lúc băng ngoài gió hú
Chỉ trăng tường đồn trú nơi nào
Xưa nay lều trại luỹ hào
Người đi chinh chiến xó nao cũng nhà
Gió quần quật thịt da đau cứa
Nước sâu sâu vó ngựa mỏi chồn
Lính biên tựa trống ngáy dồn
Chiến binh ôm ngựa ngủ cồn cát hanh
Nay ở Bạch Đăng thành đất Hán
Mai lại Thanh Hải mạn trời Hồ
Núi xanh cao thấp nhấp nhô
Suối sâu liền đứt quanh co ven lùm
Trên đỉnh núi tuyết trùm xanh trắng
Dưới lòng khe nước lặng nông sâu
Xót chàng giáp mỏng áo nhầu
Nghĩ về nghĩa lớn mày cau nhẫn nhường
Trên trướng gấm quân vương biết chớ
Nét chinh phu khắc khổ ai tô
Hãy thương đời lính giang hồ
Xa nhà dầu dãi lâm vô hiểm nghèo
Thân gió bão hang beo ổ rắn
Đầu dãi dầu mưa nắng tuyết sương
Nhìn trời mây trắng tha hương
Lên lầu mỗi lúc càng vương nặng sầu
Sau chia biệt góc cầu hôm ấy
Biết giờ chàng vùng vẫy nơi đâu
Mấy người chinh chiến bấy lâu
Vẫn coi sinh tử nhẹ hầu bồng tang
Vung mũi giáo dọc ngang đền nợ
Phá vòng vây khép hở liều thân
Núi Kỳ nghĩa trũng trăng ngần
Bến Phì gò mộ gió dâng bồn chồn
Gió bồn chồn gọi hồn tử sĩ
Trăng mênh mang soi kỹ chinh phu
Chinh phu ai khắc hình thù
Khóc hồn tử sĩ xuân thu ai từng
Ôi tranh đoạt không dừng triều cũ
Giờ đi ngang khách rủ lòng thương
Mấy ai thoát khỏi sa trường
Hoạ hoằn, tóc đã điểm sương mới về
Nghĩ cảnh chàng mải mê giục vó
Ba thước gươm một bộ yên cương
Đuổi trăng vượt gió sa trường
Tên reo đầu ngựa giáo giương khắp thành
Trăm bề bộn công danh còn dở
Muôn nhọc nhằn gian khổ chưa ngơi

Đất Văn Lang
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời