Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Đặng Huy Trứ » Huấn nữ ca
Đăng bởi Vanachi vào 09/12/2018 09:56
Đêm năm đóng cửa gài then,
450. Tới khi gần ngủ, tắt đèn đừng chong;
Hao dầu lẽ ấy đã xong,
Còn e gian tế dòm trong soi ngoài;
Tinh hôm rồi lại tinh mai,
Tính cho nhẩm khoảng lo dài nghĩ xa;
Điều hơn sự thiệt bởi ta,
Đủ mười phần chắc mới ra việc làm;
Ngày ngày lấy gạo nấu cơm,
Tính nhười nhiều ít đặt cơm cho vừa;
Làm chua làm mặn làm dưa,
460. Cải cà tôm cá để chừa giọt mưa;
Bếp lò than củi thừa ưa,
Cũng đừng nhúm trấu mạt cưa châm vào;
Bẹ cau tàu chuối cây rào,
Gốc tre củi bắp cất vào nhà sau;
Đậu mè, gạo nếp, hoa màu,
Cải ngô, cà mướp, bí bầu, môn lang;
Giống gì giống nấy sẵn sàng,
Hỏi đâu có đó sửa sang từ đầu;
Hạt tiêu gừng tỏi để lâu,
470. Đêm hôm lỡ chợ khỏi cầu xin ai;
Bột đường mè đậu bắp khoai,
Phơi khô cất kín mưa dai lọt nhầm;
Lá đoan ngũ, muối lâu năm,
Rượu, dầu, ngải, thuốc, sẵn năm ba màu;
Phòng khi đau bụng nhức đầu,
Đưa ra cứu cấp, vậy sau thuốc thầy;
Mả mồ dê đạp trâu giầy,
Cửa nhà từng chịu lâu ngày võ phong;
Đôi khi rách xể hở lòng,
480. Tấm tranh trạc đất sửa trong lúc nầy;
Áo chăn đứt sổ từ đây,
Mũi kim đường chỉ vá ngay cho rồi;
Chớ nên kẻo để lôi thôi,
Nhỏ làm nên lớn, công đôi diền dày;
Cưới ma kị lạp bội chay,
Hay là thổ mộc quan rày khách mai;
Việc chi rộng hẹp vắn dài,
Ít thêm nhiều bớt, một hai tính vừa;
Mãn nghe chợ ế hàng thừa,
490. Rẻ mua mắc bán lọc lừa thấp cao;
Những là việc ấy biết bao?
So đo hơn thiệt dễ nào hư mau?
Nhà nghèo ăn trước trả sau,
Trời cho mình có, lẽ đâu át dùa;
Lúa bông lúc chửa tới mùa,
Dầu cho tiền trước hơn thua rõ ràng;
Cái cân cái thước cái lường,
Vâng theo phép nước lẽ thường quan dân;
Chớ nên ích kỉ hại nhân,
500. Vào nhiều ra ít chịu phần tội riêng;
Cho vay đặt lãi có giêng,
Đầy năm đủ tháng người khiêng giả mình;
Ba phân luật lệ rành rành,
Ví bằng vi cấm trời dành hoạ sau;
Dầu ai vi ước để lâu,
Nhứt bổn nhứt tức có đâu tham nhiều?
Phước trời cho sẵn của tiền,
Làm sao cho khỏi kẻ yêu người cầu;
Thấy ai mình cốc sắc rau,
510. Bị mang lá liếm càng đau đớn lòng;
Thiếu chi gạo hột tiền đồng,
Nới tay làm phước, đứa cùng đội ơn;
Phong hoàng thuỷ hạn từ cơn,
Thanh huỳnh bất tiếp sạch trơn như bào,
Càng ngày giá chợ càng cao,
Gạo châu củi quế lẽ nào bền gan?
Ra tay cứu kẻ cơ hàn,
Cho không bán rẻ tính toan mọi đường;
Một đôi chết chợ đau đường,
520. Hoặc khi ôn dịch bốn phương nhộn nhàng;
Cháo cơm hườn tán nước thang,
Chiếu quan vải, giấy sửa sang bỉ bàng;
Chớ nên lòng sắt dạ gan,
Bó chày buộc chặt mà mang tội nhiều;
Nhà buôn của tốt mới tiêu,
Ho1a chơn giá thật để chiêu mối hàng;
Chớ nên tay đổi tay sang,
Người lầm của xấu mình mang hoạ trời;
Xem hàng thuốc bắc mọi nơi,
530. Mấy ai giả hiệu giết người hại sâu?
Những hàng tơ gạo đâu đâu,
Bột hồ nước tẩm sống lâu mấy đời?
Đi buôn sao chẳng ăn lời?
Tính cho vừa phải một lời thế thôi;
Dầu may vốn một lời đôi,
Cũng nhờ buổi chợ mà ngồi ăn chong;
Chớ nên gác giá khi không,
Trông người bắt bí nhiều đồng mà chi?
Tiền xanh có lúc dời đi,
540. Thiếu bù xấu đổi chớ ly một đồng;
Của trời vốn thiệt của chung,
Mình tu mình đặng âm công về mình;
Người đời ai chẳng kính dinh?
Phải mua vừa bán một mình chi ai?
Hai bên đã thuận nhau rồi,
Chớ nên tranh đứng cướp ngồi làm chi;
Cây trời hơi gió cớ gì,
Người khi cảm nhiễm, đá khi đổ buồn;
Dầu khi đau nặng nằm tròn,
550. Thuốc thang châm chích cũng nhon bệnh nầy;
Chớ nên bóng bóng thầy thầy,
Quét nhà ra rác thêm bày việc mình;
Làm người giữ đặng chữ lành,
Có thập phương Phật, trời xanh hộ trì;
Ví bằng khẩu độc tâm ki,
Tích ác phùng ác kêu chi Phật trời?
Những là đồng cốt dối đời,
Theo đàng tả đạo ở nơi miễu chùa;
Chớ nghe kêu dỗ mà hùa,
560. Rồi ra say thuốc mê bùa khốn thay;
Số ta sẵn cỗ trời bày,
Phú quí bần tiện định ngày sơ sanh;
Bằng ta chứa đức làm lành,
Trời già kia phải thay nhành đổi bông;
Đừng còn tư tưởng nhọc lòng,
Cầu xâm quẻ bói gẫm không thật gì;
Chồng hiền vận kiển một khi,
Có rồng biến hoá, biết chi việc trời?
Dầu ta phú quí hơn người,
Cũng nên bò lết hết lời kính cung;