次邕江開船元韻

忽逢星使到江津,
瀟洒行蹤迥絕塵。
自昔南來推國士,
于今北上擬天神。
新篇傳出鳳樓手,
畫艦迷將湘浦鱗。
千水千山遊歷遠,
春歸應記贈詩人。

 

Thứ Ung Giang khai thuyền nguyên vận

Hốt phùng tinh sứ đáo giang tân,
Tiêu sái hành tung quýnh tuyệt trần.
Tự tích Nam lai suy quốc sĩ,
Vu kim Bắc thượng nghĩ thiên thần.
Tân thiên truyền xuất phượng lâu thủ,
Hoạ hạm mê tương Tương Phố lân.
Thiên thuỷ thiên sơn du lịch viễn,
Xuân quy ưng ký tặng thi nhân.

 

Dịch nghĩa

Bỗng được gặp sứ đoàn đến bến sông,
Gót chân phóng khoáng vượt xa hẳn cõi trần.
Từ xưa ở phương Nam đã được tôn là bậc quốc sĩ,
Ngày nay trên phương Bắc, nghĩ là bậc thiên thần.
Thiên thơ mới nghe nói là tác phẩm từ tay người lầu phượng,
Thuyền vẽ đậu san sát như vảy cá trên bến sông Tương.
Cuộc du chơi xa trải ngàn sông ngàn núi,
Mùa xuân trở về, nên ghi lại tặng cho bạn thơ.


Bài thơ này hoạ vần bài Ung giang khai thuyền ngẫu đắc 邕江開船偶得 của Phan Huy Thực, sứ thần nước ta phụng mệnh đi sứ nhà Thanh năm 1817. Bài thơ này sau đó tiếp tục được Phan Huy Thực hoạ vần đáp lại bằng bài Hoạ đáp văn nhân Đường Tổ Hướng. Bài thơ này vốn được tìm thấy trong tập Hoa trình tạp vịnh, chép dưới bài Hoạ đáp văn nhân Đường Tổ Hướng với đề mục Phụ lục lai thi 附錄來詩 (Phụ chép thơ gửi đến). Thông tin xem thêm lời nguyên dẫn trong bài Hoạ đáp văn nhân Đường Tổ Hướng của Phan Huy Thực.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]