Tập thơ "Bội lan hành" do Quình Lâm xuất bản năm 1969 sau khi Đông Hồ đã qua đời. Trước đó trên Tập san Văn-Saigon đã đăng bài thơ này vào năm 1966.

Bội lan hành

Nhẫn thu lan dĩ vi bội
(Ly tao)

Trăm kém hai dòng lệ
Gởi lại Mái Trăng Non
Gởi theo gió ly tán
Khắp làng thơ Đau buồn

Lệ khô lòng tấm tức
Chưa hết nỗi oan hờn
Lệ khô rồi lệ rỏ
Quán khách khóc cô đơn

Mực đọng sầu trên giấy
Vần gieo lòng bài thơ
Lệ gieo lòng đau khổ
Sương đọng trên cành khô
Lệ đọng sầu trên gối
Thuyền neo bến mộng bơ vơ

Non xanh xanh
Nước xanh xanh
Non tan tành (bị kiểm duyệt)
Nước tan tành (bị kiểm duyệt)

Gởi ai non nước bài hành

BỘI LAN


Mảnh nguyệt năm tàn vương mỏng manh
Theo con thuyền nhỏ thả lênh đênh
Đêm nay thuyền ghé bờ Vô vọng
Để sáng mai qua bến Bất bình

Kinh cạn sông cùng chèo lúng túng
Đường lầy ngõ tắt bước lanh quanh
Chim bằng cánh mỏi trời thu hẹp
Ngựa ký chân sa đất gập ghềnh
Cá chậu chim lồng chưa thoát khỏi
Miệng hùm nọc rắn sẵn bên mình

Đêm đêm thuyền mở lòng trăng gió
Chẳng đón trăng duyên chẳng gió tình
Mối hận tơ vò lòng cố quốc
Giọt sầu mưa ướt lệ gia đình

Tây yên nước sớm mờ sương khói
Viễn mộng trôi theo cánh lục bình
Nước chảy ngẩn ngơ niềm nguyện ước
Bèo trôi man mác ý phiêu linh

Tuế trừ cơm nuốt mùi chua xót
Lạt lẽo hương gòn vẩn mái tranh
Chèo mất may còn duyên thấy lại
Thuyền chìm thôi hết kiếp thông minh

Giao thừa Kinh khủng qua Bi thiết
Hồn lạc bơ vơ nẻo Trúc thành
Tìm bóng Thân yêu nguyên đán cũ
Sương hoa lã chã lệ bình minh

Muôn Hương vườn ngậm muôn thê thảm
Mái Nguyệt lầu Sao xuân vắng tanh
Giấy mực để đau lòng chữ nghĩa
Tài hoa chi lỡ hẹn bình sinh

Phấn son hoen ố màu tro bụi
Vàng ngọc đành đem lẫn sỏi sành
Đậm nhạt quê xưa rừng nắng xế
Chiều hôm sương gió áo phong phanh
Trời buồn qua những ngày tang tóc
Trùm giải khăn sô xótviễn hành

Ôi! có quên sao đêm giã biệt
Mưa tàn trăng gác núi chênh chênh
Rễ bèo từ đó theo chân sóng
Trăng khuyết rồi trăng lại nửa vành
Cứ dõi theo hoài bờ bến mới
Trăng tròn in đáy nước long lanh

Tin nhà không gởi nhờ chim nhạn
Vận nước còn treo sợi chỉ mành
Ngửa mắt bốn phương mù khói lửa
Cúi đầu bảy thước thẹn thư sinh
Lánh Tần đâu có nguồn hoa thắm
Tìm Tống đây không mảnh đất lành
Vượt khỏi bờ lau qua cửa chợ
Tuyết sương bạc trắng mái đầu xanh
Tiếng tiêu rớt lại chiều ai oán
Gieo rắc thương lòng giọt ớt chanh
No đói ăn nhờ cơm nửa bữa
Nhớ thương chờ gặp giấc năm canh

Chẳng may làm khách chơi thời loạn
Sao chẳng ngu si hưởng thái bình
Mắt chẳng che đi tai chẳng lấp
Vỡ lòng trót học chữ kiên trinh

Sông trôi lai láng xương vô định
Tạo hóa nào đâu đức hiếu sinh
Tấm lụa Non Sông nà nõn quá
Chia năm sẻ bảy để tan tành

Âu vàng ngựa đá ai mong mỏi
Giép mũ ai làm chuyện đảo khuynh
Sáu tỉnh trăm năm còn để hận
Chưa mờ chín chữ bức minh tinh
Hang sâu tàn úa hương vương giả
Đã chật sông Mê bóng ngạc kình
Ưu liệt vũ đài trò thế giới
Lưỡi còn không nói chuyện tung hoành

Thơ ơi! Cao cả nguồn trong sạch
Chảy đục lầm chi giữa chiến tranh
Để tủi thương cho hồn nghệ sĩ
Thơm tho vùi trộn với Hôi tanh
Bạn bè thăm hỏi trong ly tán
Ngóng gió ngàn phương chẳng mối manh
Dằng dặc sông dài sầu cuồn cuộn
Bâng khuâng trời rộng nhớ mông mênh

Cánh buồm bạt gió trôi hồ hải
Núi Thái lông hồng chở trọng khinh
Thương nhớ mài mòn viên khối lỗi
Vườn lòng mưa gió tiết điêu linh
Lạnh lùng một buổi chiều hoa rụng
Ai nhặt hồn hoa chấp lại cành

Lạc bước ngập ngừng trong ánh sáng
Náu mình theo gió bụi Kinh thành
Gái buôn đâu biết hờn vong quốc
Bên nước còn vang khúc Hậu đình
Ngàn Thủ lỗi thề: Vị đắng lắm!
Thành Cai: Tứ diện Sở ca thanh!

Máu rơi nức nở thiên ai oán
Thổn thức nghìn thu tiếng phẩm bình
Sông Dịch chửa lên cơn gió lạnh
Chùm lan sông Mịch hát ngông nghênh
"Tâm thư dục phó hà đo đạt
"Cựu sự thê lương bất nhẫn thinh
"Thương thủy trọc hề trạc ngã túc
Thương thủy thanh hề trạc ngã anh"


Nguồn: Bán nguyệt san Văn, Saigon (15-IX-1966)
Bán đi những thứ dãi dầu
Mua về những thứ rặt mầu nhà quê