Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Nguyễn Du » Thanh Hiên thi tập » Làm quan ở Bắc Hà (1802-1804) » Độc Tiểu Thanh ký
Tây hồ hoa uyển tẫn thành khư“Vườn hoa đẹp Tây hồ đã thành bãi hoang”. Đây là Tây hồ của Hàng Châu, Trung Quốc. Câu thơ mở bài nói một đổi thay tàn tạ, nhưng không phải chỉ để gợi cảm khái chung chung, mà gắn với một địa danh cụ thể, Tây hồ. Tiểu Thanh, đời nhà Minh tài sắc, nhưng phải làm lẽ, bị vợ cả hành hạ. Tây hồ là nơi nàng bị người vợ cả ép sống đơn lẻ ở đây đến phải chết buồn năm 18 tuổi. Bài thơ mang giọng Nguyễn Du tâm sự với Tiểu Thanh:
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
Trước cửa sổ (ta) đọc cuốn sách, viếng nàng.Cuốn sách ấy là cuốn Ghi chép về cuộc đời Tiểu Thanh (Tiểu Thanh ký). Trong đó tôi đoán có chép lại 12 bài thơ còn sót lại khi tập thơ mang tâm sự bị người vợ cả đem đốt. Nguyễn Du đọc đời nàng, xem thơ nàng và xót thương thân phận nàng, chính là một hành động phúng điếu.
Chi phấn hữu thần liên tử hậuTôi trích hai câu liền vì hai câu đối ý quấn quýt tạo nên một mạch cảm xúc. Nhưng chuyển sang tiếng Việt xin được xét từng câu. Câu thứ ba, bản dịch nghĩa của Vũ Tam Tập in trong sách giáo khoa:
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.
Son phấn có thần chắc phải xót xa vì những việc sau khi chết,Thơ chữ Hán thường nén chữ lại, phá vỡ kết cấu văn phạm thông thường, nên người đọc có thể hiểu theo nhiều cách. Riêng trong câu này ba chữ “liên tử hậu” (liên: thương; tử hậu: sau khi chết). Vũ Tam Tập chắc đã căn cứ theo tiểu sử Tiểu Thanh mà luận ra, bằng cách coi chủ từ của “thương” là hồn vía Tiểu Thanh. Và “sau khi chết” thì phải hiểu là “mọi việc xảy ra sau khi Tiểu Thanh chết”, ở đây ám chỉ việc người vợ cả đốt những bài thơ của nàng. Cách hiểu này có lý, tuy lập luận có lấn hơi nhiều ra ngoài chữ nghĩa của câu thơ. Nhưng điều đáng nói là hiểu như thế ý thơ bị hẹp lại, tình cảm cũng mất đi vẻ trữ tình thế sự, chuyển thành một thứ thơ kể chuyện đời Tiểu Thanh bằng phẳng, nhạt và bị rời khỏi tư thế trí tuệ của bài thơ.
Văn chương không mệnh mà mang luỵ cả lúc đã thành tro.
Văn chương không có số mệnh mà cũng bị đốt dở.Câu này dịch thế e mất ý. Mất chữ “luỵ”, vốn là nhãn tự của câu, nó ăn với chữ “liên” ở câu trên. Và cứ trong nghĩa câu dịch này mà hiểu thì hơi văn lại hoá ngô nghê: “Văn chương không có số mệnh... mà cũng bị đốt dở!”. Thế nghĩa là nó đáng phải được đốt cháy cho bằng hết(!). Câu thơ này gây hiểu lầm cũng ở ba chữ cuối “luỵ” (gây khó) “phần” (đốt) “dư” (còn lại). “Luỵ” cho đến cả phần “còn lại sau khi đốt” (luỵ cho tác giả) hay “phần còn lại sau khi đốt” còn đủ sức gây bận lòng người (luỵ cho độc giả)? Cả hai cách hiểu đều có lý và không mâu thuẫn. Người sau khi chết vẫn gây thương và thơ còn sót sau khi cháy vẫn gây khắc khoải (luỵ) cho người đời. Chính Nguyễn Du đang thể nghiệm cái mối luỵ ấy khi đọc bài ký về Tiểu Thanh. Bản dịch của Thảo Phương, trong Đọc và dịch thơ chữ Hán Nguyễn Du (NXB Văn học, 2007), câu này chuyển ngữ là: “Luỵ đến tàn tro, hỡi phú thơ!” thì mối luỵ đứng giữa độc giả và tác giả. Còn mối luỵ ám vào tác giả: Văn chương vô mệnh, nó không như người, không là sinh linh, chỉ là chữ trên giấy, mà đã mang đốt đi, thành tro rồi, vẫn còn để luỵ cho người viết ra nó. Cái “luỵ” ấy đủ mạnh để cân với sức nặng của chữ “thương” ở câu trên (thương người thương sang cả cõi ma). “Luỵ, đến tàn tro còn gây luỵ”... Đây cũng là một chiêm nghiệm phổ biến của giới chữ nghĩa. Cái luỵ văn chương xưa nay nhiều lắm. Nguyễn Du hẳn biết nhiều những “ngục văn tự” của tiền nhân. Và trong đời chắc hẳn chính ông cũng nhiều phen nghe lạnh sống lưng. Ấy là chưa kể đời sau, ông “con giời” Tự Đức đọc đến câu Kiều “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai” còn muốn nọc Nguyễn Du ra đánh trăm trượng nữa kia. Có bất ngờ chăng là cái luỵ ấy lại rơi vào thân phận một cô gái làm lẽ tội nghiệp, văn chương rất nghiệp dư này. Cái nỗi hận ấy của Tiểu Thanh, mà nào có riêng Tiểu Thanh, Nguyễn Du từng chứng kiến bao oán hận khi Gia Long trả thù Tây Sơn: hành hình người sống, bật mồ người chết, rồi đốt xoá đục đẽo bằng hết mọi văn tự có dính dáng đến Tây Sơn... Oán hận ngút trời! “Cổ kim hận sự thiên nan vấn”. Cái nỗi hận xưa có, nay cũng có ấy, có ngửa mặt kêu trời mà hỏi, trời cũng bất lực, vô phương: “thiên nan vấn”. Nguyễn Du ý thức được đấy là chỗ bế tắc của đời. Và ngay câu sau đó, ông ý thức phận mình: “phong vận kỳ oan ngã tự cư”: phận ông cũng đã ở sẵn trong khối oan khiên ấy. “Ngã tự cư”: ta đã ở đấy rồi. Đấy là niềm bi phẫn hay nỗi yếm thế của Nguyễn Du? Chắc cả hai. Trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, cái chữ “tự” này sao nhiều phen bi thiết: “Nhân tự bi thê, thảo tự thanh” (người tự buồn thương, cỏ tự xanh) xanh là bản tính của cỏ, bản tính của người lại là buồn thương ư! Cái chất tâm hồn Nguyễn Du như thế, nên mới vừa chạm đến thân phận Tiểu Thanh, ông đã trùng điệp nỗi mình, dẫn đến câu kết như một di chúc, một câu hỏi cực thân hỏi vào hậu thế:
Bất tri tam bách dư niên hậuBốn câu cuối bài thơ, bản dịch Vũ Tam Tập đã hoàn hảo cả tình cả ý. Và bài Độc Tiểu Thanh ký này đã là một chìa khoá giúp ta mở vào nỗi lòng Nguyễn Du.
Thiên hạ hà nhân khốc Tố Như
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Thiên hạ ai người khóc Tố Như)