Thơ » Trung Quốc » Tấn » Đào Tiềm
Đăng bởi Vanachi vào 17/08/2008 11:02
和澤周三春,
清涼素秋節。
露凝無遊氛,
天高肅景澈。
陵岑聳逸峰,
遙瞻皆奇絕。
芳菊開林耀,
青松冠巖列。
懷此貞秀姿,
卓為霜下傑。
銜觴念幽人,
千載撫爾訣。
檢素不獲展,
厭厭竟良月。
Hoà trạch chu tam xuân,
Thanh lương tố thu tiết.
Lộ ngưng vô du phân,
Thiên cao túc cảnh triệt.
Lăng sầm tủng dật phong,
Dao chiêm giai kỳ tuyệt.
Phương cúc khai lâm diệu,
Thanh tùng quán nham liệt.
Hoài thử trinh tú tư,
Trác vi sương hạ kiệt.
Hàm trường niệm u nhân,
Thiên tải phủ nhĩ quyết.
Kiểm tố bất hoạch triển,
Yêm yêm cánh lương nguyệt.
Thời tiết thuận hoà suốt ba xuân,
Tiết mùa thu mát mẻ, trong trẻo.
Sương ngưng đọng không có hơi phiêu du,
Trời cao cảnh thu trong trẻo, sáng sủa.
Gò đất có ngọn vút cao,
Từ xa ngắm cảnh tuyệt đẹp và lạ.
Cúc thơm soi sáng khu rừng,
Tùng xanh vượt trội các loài nơi vách núi.
Ôm trong mình vẻ trinh tú này,
Chính là anh kiệt ở dưới sương.
Uống rượu nghĩ tới những người ẩn sĩ,
Ngàn đời đây (tùng cúc) là bí quyết (tu ẩn) của các người.
Không nhận, mở thư từ (của người đời),
An dật mãi cùng với vầng trăng tốt lành.
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Hoà thuận suốt ba xuân,
Thu trong trẻo muôn phần.
Sương đọng hơi không tản,
Trời cao cảnh sáng trong.
Gò cao ngọn chót vót,
Xa ngắm đẹp vô vàn.
Rừng sâu hoa cúc sáng,
Vách núi trội tùng xanh.
Mang trong mình trinh tú,
Anh kiệt ngạo trong sương.
Hớp rượu nhớ ẩn sĩ,
Đây bí quyết ngàn năm.
Thư tín không nhận, mở,
An dật với trăng lành.