Buồn dâng xứ Bắc người quay lại
Chữ hiếu lồng trong nghĩa nước non
Thù cha nước mắt mờ quan ải
Nợ nước lòng đau xạm trời Nam

Đông Quan thành quách Ngô quân đóng
Cờ đen xú khí ngút trong ngoài
Người về như tiếng thầm - ngọn gió
Một vệt sáng loè - sao đổi ngôi

Gương hồ thôi sáng, chim thôi hót
Đàn treo bụi phủ, tơ nhện vương
Nhà nông bá ruộng cầm cung kiếm
Phòng văn kẻ sĩ biếng văn chương

Ruộng hoang đất mỡ ben mầm độc
Núi đồi trổ gươm cờ nghĩa bay
Trời cao muốn rộ mùa binh lửa
Ngô quân dinh luỹ cú kêu ngày

Như ngọn gió về không tung tích
Mà tựa gươm treo giữa quân thù
Áo vải, giày thô dàn thế chữ
Bút lông, chiến lược, sách bình Ngô

Thanh kiếm vua Lê, cây bút Nguyễn
Lam Sơn thác đổ một phen này
Nét chữ rồng bay tua tủa mác
Thơ reo, tên réo, triệu lòng say

Nợ nước thù cha thân chẳng tiếc
Vàng son một thuở có cần đâu
Lộc thưởng công cao dân được ruộng
Tiếng thơ vang vọng đến đời sau


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]