Thơ » Việt Nam » Hiện đại » Hồng Nguyên
Đăng bởi Vanachi vào 30/03/2007 18:09
I
Lũ chúng tôi,
Bọn người tứ xứ,
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi “một hai”
Súng bắn chưa quen,
Quân sự mươi bài,
Lòng vẫn cười vui kháng chiến,
Lột sắt đường tàu,
Rèn thêm đao kiếm.
Áo vải chân không,
Đi lùng giặc đánh.
Ba năm rồi gửi lại quê hương,
Mái lều gianh,
Tiếng mõ đêm trường,
Luống cày đất đỏ
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya.
Chúng tôi đi
Nắng mưa sờn mép ba lô,
Tháng năm bạn cùng thôn xóm
Nghỉ lại lưng đèo
Nằm trên dốc nắng.
Kì hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng,
Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa.
- Đằng nớ vợ chưa?
- Đằng nớ?
- Tớ còn chờ Độc lập
Cả lũ cười vang bên ruộng bắp,
Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu.
II
Chúng tôi đi mang cuộc đời lưu động,
Qua nhiều nơi không nhớ hết tên làng.
Đã nghỉ lại rất nhiều nhà dân chúng
Tôi nhớ bờ tre gió lộng,
Làng xuôi xóm ngược mái rạ như nhau
Có nắng chiều đột kích mấy hàng cau.
Có tiếng gà gáy sớm,
Có “khai hội, yêu cầu, chất vấn”
Có mẹ hiền bắt rận cho những đứa con xa.
Trăng lên tập hợp hát om nhà
Tôi nhớ
Giường kê cánh cửa,
Bếp lửa khoai vùi
Đồng chí nứ vui vui,
Đồng chí nứ dạy tôi dăm tối chữ,
Đồng chí mô nhớ nữa,
Kể chuyện Bình Trị Thiên,
Cho bày tôi nghe ví,
Bếp lửa rung rung đôi vai đồng chí
- Thưa trong nớ hiện chừ vô cùng gian khổ,
Đồng bào ta phải kháng chiến ra ri.
Đêm đó chúng tôi đi,
Nòng súng nghiêng nghiêng,
Đường mòn thấp thoáng...
Trong điếm nhỏ,
Mươi người trai tráng,
Sờ chuôi lựu đạn,
Ngồi thổi nùn rơm
Thức vừa rạng sáng.
Nhìn trời sương nhẩm bước chúng tôi đi.
Chúng tôi đi nhớ nhất câu ni,
Dân chúng cầm tay lắc lắc:
Độc lập nhớ rẽ viền chơi ví chắc!
Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi Vanachi ngày 29/03/2007 18:11
Có 1 người thích
Xuất hiện vào thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, gần như cùng lúc với Đèo cả của Hữu Loan, Tình sông núi của Trần Mai Ninh, Tây Tiến của Quang Dũng, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Nhớ của Hồng Nguyên đã làm nên bộ “ngũ tư bất tử” của thơ chống Pháp nói riêng và trong lịch sử thi đàn Việt Nam nói chung.
Ngay từ khi mới xuất hiện, Nhớ của Hồng Nguyên đã trở thành một hiện tượng, một sự kiện, được lan truyền rộng rãi và bám vào trí nhớ của nhiều người, nhiều lớp người dọc theo năm tháng.
Vì sao bài thơ lại có sức ám ảnh và vang động như vậy trong lòng người đọc? Lý giải điều đó tưởng không dễ dàng, song không phải là không làm được, nhất là sau hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, kể từ ngày bài thơ ra đời. (1948?)
Bài thơ có tất cả 62 dòng thơ, dòng dài nhất có 10 chữ (Có mẹ già bắt rận cho những đứa con xa), dòng ít nhất có hai chữ (- Đằng nớ?) và được chia làm ba khổ thơ mạch lạc, khúc triết, có mở có khép và có phát triển ở khoảng giữa thân bài. Cả bài thơ giống như “kịch bản phân cảnh” của một bộ phim tài liệu, nói về một cuộc hành quân chiến đấu của những người lính Vệ quốc đoàn trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Vậy trong đoàn quân ấy có bao nhiêu người, họ là những ai? Vào đầu bài thơ, nhà thơ không ngần ngại, giới thiệu luôn:
Lũ chúng tôiRồi nhà thơ hồn nhiên hạ ngay một lời bình về tinh thần đoàn quân ấy:
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi “một, hai”
Súng bắn chưa quen
Quân sư mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiếnThế đấy, chúng tôi tự giới thiệu về chúng tôi như thế đấy! Số lượng của chúng tôi không được công bố cụ thể (có lẽ vì bí mật quân sự), nhưng chúng tôi khá đông đảo (lũ, bọn) và trình độ văn hoá còn thấp (chưa biết chữ), trình độ quân sự cũng chưa cao (súng bắn chưa quen), song chúng tôi có nhiệt tình cách mạng, có ý chí chiến đấu và rất lạc quan (lòng vẫn cười vui kháng chiến).
Lột sắt đường tàuTôi không có cứ liệu trong tay để chứng minh bài thơ được viết vào năm 1948, nhưng tôi có câu thơ của Hồng Nguyên nói rõ điều đó:
Rèn thêm dao kiếm
Áo vải chân không
Đi lùng giặc đánh...
Ba năm rồi gửi lại quê hươngNếu tính từ mùa Thu Tháng Tám 1945, ba năm rồi gửi lại quê hương, ắt phải là năm 1948, mà cũng mùa thu nữa kia. Sao vậy? Bởi vì đến những ngày kỷ niệm cách mạng, các nhà thơ mới hay làm thơ! Thơ để in báo, thơ để tuyên truyền, cần phải trúng dịp, chứ sao!
Mái lều gianhNói theo ngôn ngữ điện ảnh, đây là một cảnh phim “phục hiện” có sức khái quát và ám ảnh rất cao. Cú máy đặc tả gót chân người vợ trẻ:
Tiếng mõ đêm trường
Luống cày đất đỏ
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya
Mòn chân bên cối gạo canh khuyaCái tình thương nhớ thiết tha đau đáu chỉ diễn tả bằng hình, một khuôn hình đặc tả, tài vậy thay! Và đây là phim câm, phim không lời!
Chúng tôi điSang đoạn thơ thứ hai, bài thơ mở ra với những câu thơ dài rộng, thể hiện sự tiếp xúc và lớn vượt của đoàn quân với nhân dân và đất nước. Tầm mắt mở rộng hơn, tâm hồn mở rộng hơn và nhờ thế lòng lạc quan, yêu đời cũng càng thêm phơi phới. Bao nhiêu gặp gỡ, tiếp xúc, bao nhiêu cảnh sắc, nếp sinh hoạt ở từng miền quê lũ lượt ùa vào thơ như những cánh phim toàn rộng. Lời thơ thanh thoát, thảnh thơi, hơi thở điệp trùng, cuồn cuộn:
Nắng mưa sờn mép ba lô
Tháng năm bạn cùng thôn xóm
Nghỉ lại lưng đèo
Nằm trên dốc nắng
Kỳ hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng
Quờ chán tìm hơi ấm đêm mưa
- Đằng nớ vợ chưa?
- Đằng nớ?
- Tớ còn chờ độc lập
Cả lũ cười vang bên ruộng bắp
Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu...
Chúng tôi đi mang cuộc đời lưu độngTình quân dân cá nước giản dị mà vô cùng thắm thiết, gần gũi:
Qua nhiều nơi không nhớ hết tên làng
... Tôi nhớ bờ tre gió lộng
Làng xuôi xóm ngược mái rạ như nhau
... Có tiếng gà gáy sớmBao nhiêu kỷ niệm về những làng quê, về những con người và những tấm lòng thơm thảo của những miền đất lạ đã in đậm trong tâm hồn người chiến sĩ. Những kỷ niệm ấy sẽ vĩnh viễn không phai mờ theo năm tháng, bởi vì nó cụ thể, nó hiển hiện trước mắt ta như sờ thấy được:
Có “khai hội, yêu cầu, chất vấn”
Có mẹ già bắt rận cho những đứa con xa...
Trăng lên tập họp hát om nhà.
Tôi nhớTuy nhiên, đường hành quân còn dài, sau những phút giây nghỉ ngơi, đoàn quân lại lên đường, lặng lẽ vào một đêm trăng lu, “nòng súng nghiêng nghiêng, đường mòn thấp thoáng”. Các anh ra đi vì nhiệm vụ nặng nề mà đất nước giao cho, nhưng tấm lòng còn ở lại:
Giường kê cánh cửa
Bếp lửa khoai vùi
Đồng chí nứ vui vui
Đồng chí nứ dạy tôi dăm tối chữ...
Chúng tôi đi nhớ nhất câu niCâu thơ ấy chợt gợi nhớ đến câu thơ rất hay, rất đồng vọng của Hoàng Trung Thông:
Dân chúng cầm tay lắc lắc:
“Độc lập, nhớ rẽ viền chơi ví chắc!”
Các anh đi đến khi nào trở lạiVà một cộng hưởng của thơ Hữu Loan:
Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ mong...
(Bộ đội về làng)
Một làng xa nho nhỏCái mô típ: Những người lính hành quân - Những xóm làng đi qua - Những kỷ niêm thôn làng - Hẹn ngày trở lại, ta gặp rất nhiều trong thơ kháng chiến chống Pháp thời kỳ đầu.
Đẹp như nơi hẹn hò
Có đôi lòng gắn bó
Những lời chưa nói ra...
(Những làng đi qua)
Gửi bởi hang1012 ngày 04/02/2010 08:02
Có 2 người thích
xem ra cũng không nhiêu thông tin vè tác giả này, em xin post thêm để mọi người biêt
Nhà thơ Hồng Nguyên tên khai sinh là Nguyễn Văn Vượng, sinh năm 1924 tại xã Đông Thọ, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông tham gia Hội Văn hóa Cứu quốc từ trước Cách mạng Tháng Tám, là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, ủy viên Ban Chấp hành Hội Văn hóa Cứu quốc Liên khu IV, từng viết bài cho các báo Dân mới, Sáng tạo, Thép mới…
Năm 1951, HồngNguyên lâm trọng bệnh và mất tại quê nhà khi ông đang là Trưởng ty Thông tin Tuyên truyền tỉnh Thanh Hóa.
Hồng Nguyên sáng tác ở nhiều thể loại khác nhau, trong đó tiêu biểu là thơ và tiểu luận văn học.
Trong các tác phẩm Hồng Nguyên để lại (Hồn thơ Việt Nam; Đời anh nông dân vô Nam; Nhớ; Những khẩu hiệu trong đêm), bài thơ “Nhớ” là một bài thơ tiêu biểu trong các bài thơ viết về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. “Nhớ” cũng là bài thơ ghi dấu ấn phong cách sáng tác thơ Hồng Nguyên.