Đăng bởi Hoa Xuyên Tuyết vào 29/05/2007 22:12
Đã sửa 5 lần, lần cuối bởi Hoa Xuyên Tuyết vào 23/10/2009 12:44
LỜI NGƯỜI VIẾT: Đã có biết bao huyền thoại được thêu dệt về mối tình kéo dài trong ký ức (cho dù cuộc hôn nhân lại vô cùng ngắn ngủi) của nữ sĩ người Nga Olga Bergholtz (1910-1975) và nhà thơ Nga sớm nổi danh nhưng cũng sớm chịu số phận đắng cay Boris Kornilov (1907-1938). Nhiều thế hệ người yêu thơ Việt Nam từng yêu cùng “nàng Olga” qua những bản dịch Việt ngữ ngọt ngào của nhà thơ Bằng Việt, và cũng chỉ thường chỉ nhớ đến cái tên Olga Bergholtz qua những bài thơ tình mơ mộng đầy nữ tính của bà.
Mấy ai biết rằng, đường đời của Olga không chỉ có những mối tình. Bà đã trải qua vô vàn thử thách của số phận: sự ghẻ lạnh, hắt hủi của người đời, sự phản bội của bạn bè, những tháng ngày tủi nhục trong tù ngục, sự đau đớn khi mất những đứa con còn trứng nước… Song, điều đáng quý của Olga Bergholtz mà chúng ta đọc được đằng sau những dòng viết quằn quại bật máu của bà, là Olga vẫn giữ được tình yêu nồng nàn trong trái tim người phụ nữ, giữ được những suy nghĩ tha thiết với cuộc đời, giữ được niềm hy vọng đôi khi tưởng chừng đã tắt trong tâm. Chính nhờ những điều đó mà thơ của bà gần gũi với người đọc Việt Nam, một dân tộc luôn trân trọng tình người, và nhiều khi, phải nương vào tình người mà vượt lên trên mọi đau khổ.
Viết về nữ sĩ Olga Bergholtz không dễ dàng vì tư liệu thì nhiều, nhưng có vô số hướng gợi mở, phân tích khác nhau. Song, là một người vốn hâm mộ nhà thơ, tôi thấy bất kỳ thông tin nào về Olga cũng đầy hấp dẫn, từ những mẩu chuyện về thời thơ ấu ngắn ngủi của bà cho đến những chuyện “hậu trường” của nền thi ca Xô-viết, gắn liền với những năm tháng đầy đau khổ hậu bán thập niên 30 và thời kỳ chiến tranh vệ quốc vĩ đại (1) sau đó. Lần giở lại một số trang nhật ký của Olga, đọc một số đoạn trích trong Những ngôi sao ban ngày, hồi ký của những người trong gia đình, của mẹ và em gái bà, của các nhà văn Nga đương thời và cả những nhà văn Nga hiện đại, tôi thử ghép lại thành một bức chân dung tỉ mỉ về người con gái Nga kỳ lạ này.
Thực ra, tôi không muốn dùng từ “bà” để viết về Olga Bergholtz, mặc dù khi nằm xuống, Olga đã bước vào tuổi xế bóng đời người. Nhưng cuộc đời của nữ sĩ cùng những vần thơ Nàng viết không bao giờ “có tuổi” trong tâm khảm những người yêu mến Nàng, mặc dấu ấn của thời gian. Olga Bergholtz mãi mãi là “Nàng Thơ” của thành Petrograd của thành Len ngày nào. Nàng trẻ mãi. Và bất tử.
Nghĩ đến Olga Bergholtz, không hiểu sao tôi lại muốn nhớ đến một loài cỏ dại đã từng xuất hiện trong thơ của Nàng: “Cây ngải đắng” – loài thảo mộc có mùi hương gợi niềm bất trắc nhưng lại có sức sống bền bỉ và kiên cường đã từng là ám ảnh Olga suốt nhiều năm. Và ngải đắng cũng đã từng là biểu tượng cho sự dằn vặt trong Tình yêu của người con gái nồng nàn nhưng can trường ấy:
Rồi tôi vẫn nghiến răng bướng bỉnh
Ngẩng cao đầu khép chặt lòng đau
Hoa ơi hoa, hoa nở vì đâu
Hoa ngải đắng của tình tôi yêu dấu?
…
Chẳng làm gì nữa đâu lời âu yếm vô ngần
Của người dưng hay người tôi thương mến
Muôn nẻo quanh tôi loài cỏ hoa quyến luyến
Ngải đắng ơi, hoa ngải đắng tình tôi!
(trích Cây ngải đắng, 1928 - Thuỵ Anh dịch)
Có một mùa trong ánh sáng diệu kỳ,Sau này, hình ảnh ngôi nhà thân thiết của cha mẹ còn xuất hiện nhiều lần trong thơ Olga, luôn là gam màu ấm nóng, trầm xuống bồi hồi trong bức tranh sôi động về cuộc chiến hoặc công cuộc lao động xây dựng đất nước, lắm khi đầy những khẩu hiệu, những lời tung hô:
Cái nắng êm ru, màu trời không chói,
Mùa hè rớt cho những người yếu đuối,
Cứ ngỡ ngàng như lúc mới vào xuân.
Trên má mơ hồ tơ nhện bay giăng,
Se sẽ như không, nhẹ nhàng, phơ phất...
Lanh lảnh bầy chim bay đi muôn nhặt,
Hoa cuối mùa sặc sỡ đến lo âu.
Những trận mưa rào đã tắt từ lâu,
Tất cả thấm trên cánh đồng lặng sẫm,
Hạnh phúc nhiều hơn mắt nhìn say đắm,
Ghen tuông dù chua chát... cũng thưa hơn.
(trích Mùa hè rớt - Bằng Việt dịch)
Chúng tôi ra mặt trận theo những đường phố quen thuộcNhững năm ấu thơ, Olga sống khá đầm ấm và hạnh phúc trong vòng tay của những người ruột thịt: cha mẹ; hai người bà: bà Olia nghiêm khắc và bà Masha hiền hậu (tên của hai bà được trân trọng đặt cho hai chị em nàng); và những cô, chú, bác dịu dàng khác - thường gọi nàng với cái tên rất âu yếm là Lialia, còn cô em gái của nàng là Musia... Hai chị em có bà vú Avdochia, người đã ôm chặt lấy Olga khi năm 1917, thành phố quê hương nàng rung chuyển trong tiếng súng vang rền, khiến tâm hồn non nớt của bé Lialia đầy lo sợ. Sau này, khi ở trong nhà lao, nàng đã nhớ về mái ấm của mình, về hạnh phúc êm ả tuổi thơ:
Nhớ đến mỗi con đường như một giấc chiêm bao
Đây hàng giậu của mái nhà tổ phụ
Đây, trước kia, có cây phong to lớn lá rì rào.
Xuân khi ấy, cây vươn tới chúng tôi qua cửa sổ
Buổi sớm mai, óng ánh, mát tươi
Nhưng đông này lạnh lùng u tối
Bạn xanh ơi, bạn cũng chết rồi.
(trích Đường ra mặt trận, 1942 - Xuân Diệu dịch)
Chị từng mơ thấy mái nhà xưaOlga được thừa hưởng từ người cha mái tóc vàng và chiếc mũi hếch nghịch ngợm, đôi mắt xanh biếc trong vắt và bướng bỉnh. Nhưng nàng lại là đứa trẻ sớm nhạy cảm, gương mặt đôi khi mang một nỗi buồn kỳ lạ không lý giải nối. Nỗi buồn ấy được nhà văn Anninski (3) gọi là “nỗi sầu không lời và vô duyên cớ của tâm hồn Nga”. Nó len lỏi vào lòng Olga sau những lần chứng kiến cảnh bà vú Avdochia trong những ngày lễ tết, sau khi đã uống vài ba chén thường cất giọng hát một bài dân ca có lời buồn da diết, mặc dù âm điệu lại rất đỗi nhịp nhàng. Thế rồi nửa chừng, bà vú lại ôm mặt thổn thức. Những giọt nước mắt đầy cay đắng chẳng hiểu vì sao cứ rơi ra, tuồng như chẳng ai và chẳng có gì an ủi được.
Nơi tuổi thơ ngây mình đã sống
Nơi trái tim như thuở nào trông ngóng
Một tình yêu, một hơi ấm chốn nương lòng
Thấy cả đêm Giáng sinh và cả cây thông
Thấy em gái cười to vui thích
Thấy dịu dàng và đầy phấn khích
Ô cửa hồng mới sáng sớm đã rực lên
Và những món quà tặng nhau buổi đêm
Lá thông toả mùi hương cổ tích
Những đốm sao vàng đêm tĩnh mịch
Ngay trên mái nhà của chị em ta…
(trích Gửi em gái, 1939 - Thuỵ Anh dịch)
Trong chật chội và bực mình khổ sởCha Olga cũng rất chăm chút gia đình, yêu vợ và chiều chuộng hai cô con gái. Trong trí nhớ của Olga, cha nàng thời trẻ rất… điển trai và phong độ trong bộ quần áo nhà binh, nhất là hồi ông trở về sau cuộc chiến với nước Đức thời Nga Hoàng. Ông có mái tóc vàng xoăn xoăn, có bộ ria rậm như các binh sĩ Nga thời đó, bộ ria mà chị em Olga hay đùa là “chiếc đuôi thò ra từ dưới mũi cha!” Mỗi lần nghe con gái nói vậy, ông Phedor Kristophorovich lại xoắn xoắn bộ ria và cất giọng hát vui vẻ một bài ca vui nhộn của lính: “Râu hỡi, ria ơi, sao ngừng xoắn lại – cô nàng của ta lại sắp ba hoa…” Trong truyện vừa Uglich (4) và tác phẩm “Những ngôi sao ban ngày”, Olga có nhiều trang thuật lại những mẩu chuyện thật thân mật về cha và các con gái. Đoạn hồi tưởng về cuộc gặp gỡ với cha sau khi cuộc nội chiến kết thúc rất ngộ nghĩnh:
Nơi căn phòng đồ gỗ cũ mèm
Vò võ sống cô đơn mỏi mệt
Người cha mà ta đã nỡ bỏ quên
Không phải thế! Anh được yêu, anh có biếtCảnh ấy, người ấy, không gian ấy... của tuổi ấu thơ đã như một tiền đề làm nên tâm hồn thi sĩ nhạy cảm, khao khát yêu thương của nàng!
Vĩnh viễn anh là yêu dấu của em
Em không tha thứ cho anh điều gì hết
Cũng chẳng buông đôi tay ấm dịu hiền
(trích Không phải thế! Anh được yêu!, 1940 - Thuỵ Anh dịch)
Thậm chí lũ chúng tôi còn cùng tưởng lại tuổi thơ xa vắng* Tập làm thơ
Ôn lại thời nội chiến năm nao, lời hiệu triệu cứu đói năm nào
Rồi ánh điện đầu tiên từ Volkhov dâng trào
Rọi thẳng vào tuổi thanh xuân
Rọi vào ngôi trường yêu dấu
Tưởng lại ngày rời chiếc bàn học sinh thơ ấu
Bỏ lại cho các em, chúng tôi bước vào đời
Đến với hăng say lao động, trải trước mắt sáng ngời:
Tấm bản đồ khai hoang đất ông cha máu thịt
Lấp lánh ngọn lửa nhiều màu vui say nồng nhiệt
…
(trích Lại một mình đơn độc lên đường, 1952 - Thuỵ Anh dịch)
Hoa chuông ơi! Nồng nànCha nghe rồi nói “Hừm... Ờ…” rồi lầm bầm hát một đoạn ca cổ:
Ơi loài hoa dịu dàng
Lóng lánh như lệ bạc
Mộng thiếu nữ đa mang
Đa cảm! Đa cảm!..Tôi khóc oà lên vì buồn giận. Mẹ thì dịu dàng an ủi và nói là thơ “xúc động, tình cảm” lắm, chỉ có điều cha không hiểu được thôi. Mẹ thì thấy tôi viết cái gì cũng khen, còn cha thì khác… Tôi biết là cha hiểu hết!
Đa cảm quá, các ngài ơi...
Những tiếng còi nhà máy chúng tôiẤy thế mà chỉ lướt ngang qua sau lưng con gái đang ngồi thu lu với cây bút trong tay và cuốn vở nhỏ, ông Phedor đã hiểu ngay vấn đề. Ông động viên: “Con cứ viết đi, cha không làm phiền đâu. Nhưng nếu mà viết được thì cho cha xem nhé!”
Đang ca lên vang dội
Hình như tất cả các nhà máy
Đều quỳ gối
Bởi chúng đã mồ côi
Bởi Lenin đã mất
Lenin thân yêu đã mất…
Đăng bởi Hoa Xuyên Tuyết vào 08/11/2007 08:04
Đã sửa 5 lần, lần cuối bởi Hoa Xuyên Tuyết vào 23/10/2009 12:46
(NCTG) “Khi người cha sôi nổi thông báo tin bài thơ của cô con gái lần đầu tiên được đến với công chúng: “Chúc mừng con! Mọi người bảo là hay… Con đã trở thành thi sĩ thực thụ rồi đấy - họ đã in thơ con!”, không hiểu sao lúc ấy, cô bé Olga 14 tuổi cùng với sự vui sướng tột độ lại cảm thấy đôi chút sợ hãi, lo âu. Một linh cảm kỳ lạ chăng?
Dầu thế nào mặc lòng, từ bấy giờ, Olga đã thề sẽ trở thành một nhà thơ thực sự, hơn thế nữa, là một nhà thơ của giai cấp vô sản. Mặc dù luôn có những linh cảm lạ lùng, khi ấy, người thiếu nữ trong sáng không hề biết rằng cuộc đời đầy biến động phía trước đang chờ đợi nàng với tất cả nỗi thống khổ cùng cực” (trích Phần 1 của bài viết)
Phần 2: NHỮNG MỐI TÌNH TRONG ĐỜI: SAY MÊ VÀ THỐNG KHỔ
Và thế là Olga dấn thân vào con đường xa xôi, kỳ ảo của Thi Ca.
Những năm đầu tiên bước vào đời, Olga đã từng rất thân thiết và ý hợp tâm đầu với người bạn thơ Iaroslav Smeliakov (1913-1972), nhưng đến khi gặp chàng trai 19 tuổi Boris Kornilov trong một lần sinh hoạt với bút nhóm có tên Kế tục vào tháng 2-1926, nàng đã rơi vào ánh hào quang của một tình yêu “từ cái nhìn đầu tiên”.
Vẫn còn là trẻ thơ, non nớt nhưng say đắm, cô thiếu nữ 16 tuổi Olga Berggoltz đã đón nhận tình yêu đầu như đón nhận số phận của mình. Chàng trai trẻ có vóc dáng nhỏ bé, đội mũ kepka, biết đọc thơ mình sáng tác một cách lôi cuốn và say sưa đã khiến trái tim nàng rung động. Họ yêu nhau và chỉ mấy tháng sau đã thành vợ thành chồng. Olga sinh được một cô con gái Irina, nhưng về sau bé bị bệnh mà mất khi mới tròn 8 tuổi (1936).
“Tính cách khắc nhau”, thậm chí thơ của họ cũng mang những đặc điểm đối chọi nhau, nói như Lev Anninsky (1), nhịp thơ nặng nề, trơn chuội của Kornilov ít có thể hoà hợp với cung đàn dâng trào thẳng băng của Berggoltz. Và vì thế (mà cũng chẳng chắc đã vì thế, bởi chuyện yêu đương rồi xa cách vốn dĩ luôn là điều bí ẩn), đôi tình nhân mê đắm này đã chia tay. Họ xa nhau, nhưng mối dây liên hệ sâu sắc giữa hai người vẫn còn, không lời, không hình ảnh, nhưng thiêng liêng đến mức khó hiểu. Mãi đến sau này, Olga vẫn không nguôi nhớ và đây đó trong các bài thơ, người ta vẫn mơ hồ hiểu Olga nhắc đến mối tình đầu của mình với niềm day dứt khôn nguôi. Sở dĩ người viết bài này dùng từ “mơ hồ” vì chỉ duy nhất có một bài thơ nữ sĩ ghi rõ Gửi Boris Kornilov (mà nhà thơ Bằng Việt tạm đặt tên là Bài thơ cuộc đời), sáng tác năm 1940, sau khi Kornilov đã mất được hai năm. Bài thơ này đã trở thành huyền thoại trong lòng người yêu thơ Việt Nam, qua bản dịch uyển chuyển và rất thành công của nhà thơ Bằng Việt (2).
Khi viết bài thơ này, Olga mất liên lạc với Boris đã lâu, chỉ được biết rằng anh bị bắt – không ai rõ Kornilov bị đi đày giữa chốn Gulag xa hút, hay đã bỏ mình? Olga kiên nhẫn chờ đợi tin người, và không một phút nào tin vào cái chết của Boris Kornilov:
Không, chẳng bao giờ em chấp nhận nổi đâuĐến Leningrad vào năm 1925, chàng trai 18 tuổi từ thành phố bên sông Volga đã từng rất nổi tiếng, là “cái hy vọng” của nền Thi ca Xô-Viết trẻ như lời khẳng định của nhiều người tại Đại hội lần thứ I các nhà văn Xô-Viết. Tháng 4-1925, Ra biển!, bài thơ đầu tiên của Boris Kornilov được đăng tải và rất được khen ngợi. Ảnh hưởng khá sâu sắc phong cách Esenin, nhưng anh vẫn giữ được cho mình nét riêng không trộn lẫn. Đó là những câu thơ mang nhịp điệu khá gập ghềnh, đôi lúc trúc trắc, khó đọc. Thi phẩm nổi tiếng nhất thời đó của Kornilov là Bài ca chào đón (1931) được nhạc sĩ tài danh Shostakovich (cũng là nhạc sĩ yêu thích nhất của Olga) phổ nhạc trong bộ phim Người đón chờ (1932):
rằng anh đã qua đời, anh hãy tin em nhé
Ranh giới giữa sáng tâm và loạn trí
em bây giờ thường nhìn thấu được ra
(Không, chẳng bao giờ em chấp nhận nổi đâu, 1938*)
Ban mai đón ta bằng hơi giáSuốt hơn hai thập niên, cả nước hát bài ca ấy, ngợi ca nhịp điệu làm việc sôi nổi của một ngày mới trên đất nước Xô-viết. Có ai ngờ, chờ đón tác giả của nó lại là một ngày đen tối! Boris trở thành một trong những cái đích ngắm của nạn bạo hành thời Stalin sau khi anh viết bài thơ “Ngày cuối cùng của Kirov” (3). Vì bài thơ này, anh bị khép vào tội “phản cách mạng”. Năm 1936, Kornilov bị khai trừ khỏi Hội nhà văn Xô-viết. Tháng 3-1937, nhà thơ bị bắt. Thi phẩm cuối cùng của anh được đăng là những vần thơ về A. Pushkin. 20-2-1938, nhà thơ vĩnh viễn không bao giờ còn được làm thơ nữa: Boris Kornilov bị xử hình. (4)
Dòng sông đón ta bằng gió xa
Cô gái tóc quăn hỡi, cớ sao em vẫn
Không vui nghe tiếng còi tàu?
Đừng ngủ nữa, tóc quăn ơi, hãy dậy mau
Những đội thợ đã vào phân xưởng
Đất nước bừng dậy cùng vinh quang
Đón chào ngày mới
(Olga có mái tóc xoăn vàng óng rất đẹp và ngay ở bài thơ mang âm hưởng ngợi ca cuộc sống mới này, nàng vẫn hiển hiện bên chàng!)
Người thương ơi, em tìm được ai rồi?Có một điều thú vị là, cho dù bài thơ được viết từ năm 1935, nhưng nhiều hình ảnh nhắc nhở về cô đoàn viên Olga trẻ trung, trong sáng như thiên thần mà Boris gọi là “người vợ có đôi cánh trắng”, cũng như những nơi nàng bước chân qua trong trí tưởng tượng của anh - tất cả đều từng có thực trong cuộc đời của Olga sau này, hệt như một sự tiên tri, một điềm báo.
Mà ngân nga bài ca trong trẻo
Thủ thỉ tâm tình... thay thế cho kẻ
U uẩn một thời… là tôi
Em đã hôn ai rồi
Bên dòng Dunai, bên dòng Oka nước mát
Trên bến đợi, bên bờ đổ nát
Bên dốc đứng kia nơi ào ạt sông này
Anh chàng ấy sẽ cao thấp béo gầy?
Xuân tới chàng ta bao nhiêu tuổi?
Có dám bước đến đây đàng hoàng không bối rối
Giản dị cất tiếng chào tôi?
(Tôi từng có người thương, 1935)
Tìm về bờ dốc cũ xưaĐó cũng là một giấc mơ yêu:
Đối mặt tận cùng số mệnh
Hạnh phúc một thời chống chếnh
Là tôi... nhiều năm qua rồi
Biển xanh biếc tận chân trời
Hoàng hôn màu đồng ngút ngát
Hoa cỏ dưới chân xào xạc
Lại như... nhiều năm qua rồi
Cũng hương bạc hà khắp nơi
Cũng tiếng én kêu não ruột
Làm sao lấy lại, anh ơi
Những gì thân thương đã mất?
(Cánh én bên bờ dốc đứng, 1940)
Một bến đợi lạ lùng trong đêm tối cuối trờiPhải chăng, nàng Olga năm nào và mối tình say đắm đầu tiên vẫn thấp thoáng sống dậy trong suốt cuộc đời gian truân của nữ sĩ Berggoltz?
Lửa sáng trên bờ, lửa ở sâu đáy nước
Ai đó tôi không quen đứng chờ đây từ trước
Mà từ xa tôi cũng có thể nhận ra
Chỉ một phút nữa thôi tôi sẽ nghe thấy người ta:
“Em đây rồi. Anh đến với em, em có biết?”
Phút đầu tiên tôi không thốt nên lời gì hết
Chỉ chìa tay đón số phận của mình...
(Lại một mình đơn độc lên đường, trích Chùm thơ về sông Đông – sông Volga, 1950)
Em lấy được anh của cuộc đời“Mãi mãi” – từ này tưởng chừng dễ nói ra giữa những người đang yêu, cũng dễ trở thành là “đầu môi chót lưỡi”. Nhưng với Olga, đến cuối đời, bà đã một lần nữa nhắc đến người chồng thứ hai của mình với từ “mãi mãi”. Bà luôn cảm thấy mình là “người vợ goá” của ông, kể cả khi bà đang hạnh phúc với mối tình thứ ba, mối tình cuối đời:
Như tia lửa bắn ra từ đá cuội
Để rồi chẳng chia rời,
Để rồi anh yêu em mãi mãi.
(Em lấy được anh của cuộc đời, 1936)
Hôm nay đây em đã ngoái nhìn.Năm 1926, Olga Berggoltz theo học khoá nghiên cứu Lịch sử nghệ thuật và năm 1927, bà được tuyển vào học ngành báo chí khoa Ngữ Văn trường Đại học Tổng hợp Leningrad. Ở đó, sau khi chia tay với Kornilov năm 1930, bà gặp Nikolai Molchanov (1909-1942) và đi bước nữa cùng ông. Buổi đầu bày tỏ tình yêu giữa đôi trai gái cũng vẫn xúc động không khác gì lần yêu đầu: một buổi sớm mai trên con đường dọc bờ sông vắng thưa người qua lại, không khí nao niết mùi hương toả ra từ những rặng thông, tiếng hải hâu kêu chao chác từ xa… thấp thoáng cánh trắng dập dềnh phía bầu trời ửng đỏ của rạng đông. Cảnh tượng ấy đã chứng kiến mối tình “mãi mãi” của Olga Berggoltz và Nikolai Molchanov. Hai con người trẻ tuổi cùng làm việc miệt mài bên nhau ở Alma-Ata (Kazakhstan) - khi ấy Olga là phóng viên báo Thảo nguyên Xô-viết, cùng chiến đấu trong vòng phong toả của phát-xít Đức ở Leningrad và cùng chung sức trong rất nhiều dự định.
Và bỗng thấy: hướng về mình từ lòng băng giá
Người bạn đời còn sống với đôi mắt có hồn rất lạ
Người duy nhất của em – mãi mãi, muôn đời
…
Là vợ người ta - với tất cả những ai đang sống
Với riêng chúng mình – em là vợ goá của anh.
(Ôi xin đừng ngoái lại phía sau, 1947)
Tình yêu của anh kỳ diệu vô chừng*
Khiến em phải ngẩng cao đầu và sống
(Ngày 29 tháng Giêng năm 1942)
Anh đi qua những trận chiến, trại tập trung Maidanek, địa ngục tối mò“Người chồng mới” mà Olga nhắc đến trong bài thơ trên là nhà ngôn ngữ học Georgi Makogonenko (1912-1986), người mà, không hiểu sao, sau này các nhà viết tiểu sử Olga thường tránh nhắc đến tên. Dường như người ta ngầm lên án ông về sự dằn vặt tâm hồn của Olga thể hiện trong các bài thơ viết về tình yêu cuối đời, về sự cô đơn của bà lúc tuổi già. Mà chính Olga cũng chưa bao giờ đề tặng ông bất cứ một bài thơ tình nào, cho dù, vì ông, bà đã từng viết những vần thơ “âm thầm ghen tuông cay đắng”. Thế nhưng, không thể phủ nhận được một điều rằng, tình yêu thứ ba này, tuy không làm mờ đi mối tình âu yếm trong quá khứ với Boris Kornilov, không khiến bà nguôi quên mối tình sâu đậm kéo dài “mãi mãi” với Nikolai Molchanov, thì vẫn từng là bàn tay chìa ra nâng đỡ tinh thần bà trong những giờ khắc hoang mang:
xuyên qua những lò thiêu say lửa cười nghiêng ngả
qua cái chết của chính mình anh tìm về thành Len sỏi đá
đến được nơi này vì anh rất yêu em
Anh tìm được nhà em, em đang sống êm đềm
không ở nhà chúng mình xưa mà trong ngôi nhà khác,
và người chồng mới bên em – thực tại làm anh ngơ ngác,
ôi sao anh chẳng ngờ đến sự hiện diện của người?!
…
Bạn đời của em ơi, - xin tha thứ cho em tiếng nghẹn ngào vô tình không trông đợi,
từ lâu rồi em không biết nữa đâu là thực là mơ…
(Bội bạc, 1946)
Anh đã nhận lấy người đàn bà u sầu, không mềm dịuTheo Lev Anninsky, Georgi Makogonenko đã làm mọi cách để Olga bình tâm lại, thậm chí, lấy quyền của một phó Phòng Văn nghệ BBT Đài Phát thanh Leningrad (nơi Olga làm việc suốt thời gian thành Len bị phong toả), ông đã “lệnh” cho bà phải viết cho xong thi phẩm “Trường ca tháng Hai” kịp ngày lễ Quân đội 23-2-1942. Bởi ông nhìn rõ, chỉ có công việc mới cứu được Olga khỏi nỗi đau riêng. Bản trường ca ấy đã cứu được Olga, trả lại sự bình tâm cho bà, cũng như cứu được rất nhiều người đàn bà goá khác của Leningrad khỏi chìm đắm trong hồi ức đau thương. Và tình yêu, cho dẫu đầy ắp ghen tuông, day dứt, thì vẫn cứ là “hạnh phúc”.
Người có ý nghĩ tối tăm, cơn mê dại nặng nề
Có nỗi niềm goá bụa không xoá được đau tê
Có nghiêm túc một tình yêu chưa từng qua đi hết
Nhận lấy về mình không mưu cầu niềm hoan hỉ
Miễn cưỡng nhưng vì yêu anh đã nhận về….
(Đã nhận lấy…, 1942)
Em giấu giếm nỗi niềm khổ sởvà hoang mang:
Của hờn ghen xuống tận đáy tâm hồn
Tưởng tới anh cùng một cô gái nhỏ
Không phải mình - tươi sáng, đáng yêu hơn!
… Giờ thốt nhiên em như chẳng là emNhững câu thơ này không phải được thốt ra vào một giây phút bất chợt, chúng phản ánh sự dằng xé day dứt trong tâm hồn của bà từ rất lâu.
Ít nói, ít cười, đùa những lời cay độc
Mọi người thương hại em, và bỗng chốc
Họ không còn chia sẻ những niềm vui
Giữa cuộc chơi em chợt nghẹn lời
Đưa mắt nhìn về miền mông lung bí ẩn
Trong giây lát em đã xa vạn dặm
Cô độc vô cùng với nỗi lòng riêng
Nơi nhạt nhoà ánh sáng không tên
Khẽ run rẩy trong khí trời ẩm ướt
Nếu khi ấy anh gọi em thảng thốt
“Em ở đâu?”… Em cũng chẳng quay về
để rồi cất lời khẩn khoản người thương:
Anh yêu ơi giữa bao điều vô thức
Hãy nhắc thật nhiều rằng anh rất yêu em
Em lại trở về giản dị đáng yêu thêm
Em sẽ không còn ghen tuông cay đắng nữa
Mới hôm qua còn chìm trong mắt em đâyNhững ngày này, trên môi Olga không ngừng ngân lên những bài thơ tình yêu của Martynovski, của Pasternak, của Marina Svetaeva… Dường như, đó là “liệu pháp tinh thần” của bà vậy, để thấy mình không đơn độc chịu đựng nỗi đau chia lìa. Và cuối cùng, đương nhiên, bà tìm quên trong… thuốc lá và rượu. Thực ra, bà bắt đầu uống từ lâu, ngay từ khi bắt đầu chung sống với Georgi Makogonenko và thói quen xấu này đã khiến miệng lưỡi thế gian xúc xiểm bà khá nhiều. Họ thêu dệt đủ điều. Thật đau lòng khi tưởng ra cảnh người phụ nữ phúc hậu dịu dàng này chìm trong cơn mộng của ma men. Nhưng, nhìn lại những gì bà trải qua, chúng ta hoàn toàn hiểu bà. Đôi khi, cơn mê lại đem tới cho tâm hồn những khoảng lặng cứu rỗi vô cùng cần thiết.
Bây giờ đã nhìn sang phía khác
Mới hôm qua còn ngồi bên em đợi tiếng chim gọi sáng
Giờ sơn ca thành quạ cả rồi anh.
…
Những con tàu đưa người yêu dấu đi rồi
Con đường trắng mang người đi mất hút
Và tiếng nức nở ngân vang khắp nơi trên trái đất:
“Anh yêu, em đã làm gì anh?”
(Mới hôm qua, 1920)
Đời đã chia cắt đôi ta đã khiến mình xa mãi
Em vẫn tin anh sáng trí sáng lòng
Nhưng chưa bao giờ chạm tay vào mảnh đất kiệt cùng
Hẳn anh chưa từng biết mùi ngải đắng
Tôi mải mê hít căng mùi hương sâu lắng
Ngải đắng đây, đắng ngắt tình đời
Nỗi đau của loài người giản đơn vô hạn
Đã trở thành niềm cay cực của riêng tôi
Từ những cửa đập bê tông vẫn thoảng đưa về mùi hoa ngải
Mùi hương yêu bất tử bay đến tận nhà tôi
Thử hỏi làm sao tôi có thể chẳng cất lời
Trở về sau đắng cay nói lời yêu khác trước.
(Những lá thư viết trên đường, 1952-1960)
Năm tháng đắng cay hơn, năm tháng ngọt ngào hơnXin nhấn mạnh: “Người đầu tiên, người đã xa mất dấu” (dịch sát nghĩa hơn là “mất tích”) - Olga muốn ngầm nhắc ý “mất tích”, không có tin tức gì về Kornilov thời gian từ sau ngày ông bị bắt.
Em mới hiểu, bây giờ anh có lý
Dù chuyện xong rồi, Anh đã xa cách thế!
“Em hát khác xưa rồi, khóc cũng khác xưa theo...”
(Bài thơ cuộc đời, 1940 - Bằng Việt dịch)
Đăng bởi Hoa Xuyên Tuyết vào 02/05/2008 17:27
Đã sửa 2 lần, lần cuối bởi Hoa Xuyên Tuyết vào 23/10/2009 12:46
Trong văn chương từ xưa đến nay, không hiếm những nhầm lẫn về tác giả, tác phẩm mà chúng ta vẫn hay gọi là kỳ án hay nghi án văn chương.
Ở bài viết này, tôi xin nói đến trường hợp một số bài thơ đã và đang được gắn liền với tên tuổi của nữ sĩ Nga Olga Berggoltz. Là một người hâm mộ nhà thơ và có cất công tìm hiểu một phần di cảo thơ văn của bà, tôi muốn góp chút ý kiến nhằm cải chính một vài “nghi án” liên quan đến những thi phẩm rất quen thuộc, vốn được coi là của bà.
1. Đầu tiên là về hai bài thơ, được rất nhiều bạn đọc - trong số đó, có những thành viên nhiều diễn đàn thơ văn - cho rằng tác giả của chúng là Olga Berggoltz. Thậm chí, một trong hai bài thơ đó còn được in trang trọng một cuốn niên giám về Phụ nữ nào đó dưới tên của Olga. Đó là bài Anh đi tìm em trên bán đảo Bancăng của tác giả Khổng Văn Đương, một lưu học sinh Việt Nam từng học tập tại Romania. Điều này, về sau đã được làm rõ trên báo chí. (*)
Tuy vậy, không ít địa chỉ trên mạng, các bạn trẻ vẫn tiếp tục nhầm lẫn.
Đến hôm nay, đọc bài thơ này, tôi chợt nhớ có lần trên diễn đàn 3M, có bạn đã tự tin phán rằng, đó là sáng tác của Olga Berggoltz.
Thông tin trên mạng lan rất nhanh, gần như ít ai nghĩ đến chuyện kiểm chứng nó, khiến một lần nữa, nữ sĩ Olga lại “được” đứng tên một tác phẩm “chưa chắc” đã phải của bà. Sở dĩ ở đây tôi nói “chưa chắc”, vì chưa dám khẳng định rằng mình thuộc nằm lòng hết các tác phẩm của nữ sĩ này. Song, có rất nhiều điều khiến tôi cảm nhận rằng, đó không phải là hơi thơ của Olga, kể cả là qua một bản dịch:
NHỮNG NGƯỜI ĐÃI CÁT TÌM VÀNGĐọc những tập thơ, ký, kịch bản của Olga Berggoltz xuất bản trong nhiều năm, tôi chưa một lần bắt gặp bài thơ nào bà viết đứng ở vị trí người con trai. Có thể tôi chưa được đọc hết, nhưng theo tôi được biết, nhân vật “tôi” trữ tình trong thơ Olga luôn luôn là nữ. Thơ tình của bà không nhiều. Những bài thơ viết trước khi bà bị rơi vào vòng oan ức thường mê đắm say sưa, nhưng không hề đơn giản. Chúng có tầng, có lớp, có thấp thoáng hình ảnh người con gái Nga đôi bím tóc vàng, có dòng Neva, ánh sao băng, những con đường mòn đầy hoa cỏ dại của rừng Nga, có tiếng lau sậy bên đầm lầy, những sân ga cô quạnh buổi chiều tà, v. v.
Trên những dòng sông thế giới
có những kẻ đãi cát tìm vàng
năm tháng dài kiên nhẫn bền gan
nhặt từng mười phần một
người đãi vàng không bao giờ nóng ruột
năm tháng không hề nghiền nát niềm tin
tôi không tìm vàng, tôi chỉ tìm tình em
vất vả gấp trăm nghìn lần đãi cát
cát ở bờ sông lấy bao nhiêu chẳng được
người ở thế gian chẳng của riêng mình
tìm được một người yêu xây một mối tình
rung động, yêu thương, giận hờn, nung nấu
lúc điên cuồng như nước biển trào dâng
lúc âm thầm như sương đọng long lanh
không dám động sợ tan thành giọt nước
người đãi vàng quý chút vàng tìm được
anh thương em, anh quý mỗi nụ cười
gom góp bao nhiêu để có một cuộc đời
có giây phút rạng ngời hạnh phúc
đời quá chua cay
anh biến chua cay thành sức mạnh
cho đường đi dài rộng thênh thang
đời éo le nhiều ngõ dọc đường ngang
anh kiêu hãnh vững vàng bước tới
vì bên anh có tay em đón đợi
bàn chân anh không mỏi bao giờ
tôi từng lọc từng ý nghĩ vần thơ
trăn trở suốt đêm dài thao thức
để ca ngợi một mối tình đẹp nhất
mà khó khăn hơn đãi cát tìm vàng.
VỀ “BÀI THƠ CUỘC ĐỜI”Bài thơ này cũng được “phát tán” qua mạng, xuất phát từ một vài bản chép trong sổ tay của những người yêu thơ từ thập kỷ 70, trong đó có dòng chú thích: “Bài thơ Kornilov gửi Olga Berggoltz để đáp lại bài Bài thơ cuộc đời của bà”. Thế nhưng, xét theo năm mất của nhà thơ Kornilov (1938) và năm Olga viết bài Gửi Kornilov mà nhà thơ Bằng Việt đặt tên là Bài thơ cuộc đời (1940) thì câu trả lời cho “nghi án” này đã quá rõ ràng: tác phẩm ấy không phải do ngòi bút của nhà thơ tài danh và bạc mệnh ấy viết, đơn giản vì khi ấy ông đã qua đời!
(được coi là do Bằng Việt dịch)
Đừng nhắc nữa em ơi
Lỗi lầm thời quá khứ.
Ngôi sao bùng đốm lửa
Đâu còn nữa màu xanh.
Con chim nhỏ chuyền cành
Cũng bay theo tiếng hát,
Tìm một chiều giá buốt
Hoa sặc sỡ lo âu.
Dòng sông trôi về đâu
Nói làm chi cho khổ
Tình yêu con thuyền nhỏ
Buồm trôi nơi xa khơi.
Gặp gỡ, rồi chia phôi
Yêu thương rồi oán trách
Bây giờ đã xa cách
Nhắc lại mà làm chi.
Thời gian mãi trôi đi
Buồn vui thành kỷ niệm
Bài thơ là câu chuyện
Của ban đầu tình yêu.
CHUYỆN MƯỜI NĂM TRƯỚCTrên nhiều diễn đàn, thậm chí tuyển thơ, người ta thường ghi chú rằng đó là tác phẩm của một tác giả Bessonov nào đó, người yêu Olga! Nhưng thông tin này cũng có cơ sở để bác bỏ, vì trong tất cả các ghi chép, hồi ký của Olga và của những người đương thời, chưa ai nhắc đến nhân vật kỳ lạ này. Rất có thể do một sự nhầm lẫn nào đó từ phía người Việt. Người Nga hẳn không thể ngờ rằng nhà thơ nữ Olga Berggoltz của họ đã có thêm một mối tình nữa, mối tình do những người yêu quý Olga ở Việt Nam “thêu dệt” nên! Cho đến khi, một số người lại gán bài thơ ấy cho Kornilov, người chồng đầu tiên của Olga.
(Người dịch: chưa rõ)
Chỉ có một lần thôi,
Em hỏi anh im lặng,
Thế mà em hờn giận,
Để chúng mình xa nhau.
Biết đi đâu về đâu,
Con thuyền không bến đợi?
Ôi cây xanh tình đời,
Có nghe lòng ta gọi?
Những mùa xuân đã qua,
Tiếng ve về thổn thức,
Gió thổi vào đêm hè,
Kể chuyện mười năm trước.
Chỉ có một lần thôi,
Em hỏi anh im lặng,
Thế mà em hờn giận,
Để chúng mình xa nhau.
Nơi tình yêu bắt đầu,
Cũng là điều khó nhất!
Trái tim dù biết hát,
Nhưng tình đời dễ đâu!
Những đôi lứa yêu nhau,
Có nghe tôi kể lại,
Chỉ một lần trót dại,
Thế mà thành chia phôi.
Chỉ có một lần thôi,
Em hỏi, anh im lặng...
... Thôi thế là xong.giữa những hằn học, bất cần:
Khi người đã lên đường
Anh chạnh nghĩ,
chỉ có điều không nói
Anh nghĩ về dòng sông,
về sân ga anh đã tới
Và về miền đất của mình giống hệt một nhà ga….
(trích Que diêm nhỏ cháy bùng rồi tắt lịm... *)
Tôi sẽ im, không còn tin nữavà cả những ghen tuông, giận dỗi:
Vào tình yêu. Cô ấy đã đi rồi
Theo bông tuyết đầu mùa.. Chao, diệu vợi
Những nhảm nhí tràn vào óc tối hoang mang
...
Chia tay em, tôi sẽ cúi đầu chào
Thoải mái nhé em, được một mình một bóng
Tặng lại tôi chai dầu thơm mùi nóng
Kỷ niệm tôi cả những thỏi son môi
Bóng đèn cong quầng sáng mặt bàn tôi
Giường tôi nằm trên tầng ba cô độc
Còn cần gì nữa đâu? Hai lăm xuân lộc ngộc
Giờ tôi đã vui và dễ chịu lắm rồi.
(Tôi sẽ im, không còn tin nữa, 1933)
Người thương ơi, em tìm được ai rồi?Trích dẫn những câu thơ trên để thấy rằng, giọng thơ của Boris Kornilov không êm ả như những gì ta đọc được trong Về “Bài thơ cuộc đời” và Chuyện mười năm trước. Cái lý “gặp gỡ, chia phôi… nhắc lại làm chi”… không nằm trong “logic thơ” của ngòi bút sắc sảo này. Hơn nữa, cũng để thấy rằng, Olga Berggoltz và Boris Kornilov có thời gian sống chung rất ngắn ngủi, nhưng chuyện hai người chia tay không đơn giản là “một lần trót dại: anh hỏi, em yên lặng”. Lý do họ chia tay, cho đến tận bây giờ vẫn được những nhà nghiên cứu tiểu sử phân tích và phỏng đoán. Một trong những giả thiết đặt ra, đó là sự khó hoà hợp giữa hai con người tài hoa, nhạy cảm trong khi cuộc sống sinh hoạt khi ấy đầy rẫy những khó khăn…
Mà ngân nga bài ca trong trẻo
Thủ thỉ tâm tình, thay thế cho kẻ
U uẩn một thời… là tôi
Em đã hôn ai rồi
Bên dòng Dunai, bên dòng Oka nước mát?
…
(trích Tôi từng có người thương, 1935)
Đăng bởi Hoa Xuyên Tuyết vào 24/11/2009 10:45
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Hoa Xuyên Tuyết vào 26/11/2009 12:50
Nữ sĩ người Nga – Xô Viết Olga Fiodorovna Berggoltz (1910-1975) từ lâu đã không còn xa lạ với chúng ta qua những bản dịch mềm mại của nhà thơ Bằng Việt. Từ một số ít tác phẩm được chọn dịch ấy, đối với phần đông bạn đọc Việt Nam, Olga là một nhà thơ của tình yêu, của những rung động tinh tế và những dự cảm mong manh về sự mất mát trong tình yêu ở một người con gái:
Ở đây tôi cần ai khi xuôi ngược một mình?Kỳ thực, lần giở lại những trang hồi ký, những bài viết, những bức thư của Olga và về Olga, theo chân nhà thơ bắt đầu từ thời thơ ấu ngắn ngủi vô lo, qua tuổi trẻ nhiệt tình sôi nổi và cũng đầy thống khổ, đến ngày cuối cùng của cuộc đời, mới thấy được hết diện mạo văn chương của Olga Berggoltz trong nền văn học Nga Xô Viết. Đó là một nhà thơ luôn song hành với hiện thực cuộc sống của đất nước, chân thành và trung thực phản ánh hiện thực ấy, với một trái tim không bình lặng. Những nhà phê bình văn học Nga cùng thời thường nhắc đến cảm hứng công dân, những vần thơ công dân của bà. Chúng chiếm đến 90% gia tài văn học của nữ sĩ. Olga Berggoltz đã từng tuyên bố lý tưởng cầm bút của mình như sau:
Tôi có thể yêu ai? Ai làm tôi vui sướng?
“Tránh đừng động vào cây, mùa lá rụng” -
Nhắc suốt đường cũng chỉ bấy nhiêu thôi!
(Mùa lá rụng – Bằng Việt dịch)
Nỗi buồn này tôi giấu nổi Người chăngLịch sử văn học và lịch sử đất nước đã cho thấy, Olga Berggoltz đã hoàn thành trọn vẹn sứ mệnh mà bà đã tự đặt ra cho mình, với tư cách là một nhà thơ – người viết nên những dòng trần tình trung thực của Thời đại. Thế nhưng, cũng như Olga đã viết, những dòng trần tình ấy lại thấp thoáng nỗi buồn không giấu nổi, tuy người đọc phải thật tinh tường mới cảm nhận được.
niềm vui sống cũng chẳng hề che đậy.
Lồng ngực nóng ngay buổi đầu xé toang ra bỏng cháy,
lời trần tình trung thực của Người đây!
….
Hiển hiện tự nhiên hơn tiếng thở tự cõi lòng
như máu trong tôi sục sôi rồi lắng lại,
thì khi ấy tôi đã là Người, hỡi Hồn Thời Đại,
qua trái tim này truyền tiếng nói đến hư không”
(Nỗi buồn này tôi giấu nổi Người chăng? – Thuỵ Anh dịch)
… Thậm chí lũ chúng tôi còn cùng tưởng lại tuổi thơ xa vắngKhi Lenin mất, bà nội của Olga đã thắp nến trong nhà để tưởng nhớ. Còn cô bé Olga 14 tuổi đã viết những vần thơ giản dị và xúc động, nói về nỗi buồn chung mà những người công nhân vùng quê nàng cảm nhận khi vị lãnh tụ Cách mạng tháng 10 qua đời: “Hình như tất cả các nhà máy/ Đều quỳ gối/ Chúng đã mồ côi/ Bởi Lenin đã mất/ Lenin thân yêu đã mất”.
Ôn lại thời nội chiến năm nao, lời hiệu triệu cứu đói năm nào
Rồi ánh điện đầu tiên từ Volkhov dâng trào
Rọi thẳng vào tuổi thanh xuân
Rọi vào ngôi trường yêu dấu
Tưởng lại ngày rời chiếc bàn học sinh thơ ấu
Bỏ lại cho các em, chúng tôi bước vào đời
Đến với hăng say lao động, trải trước mắt sáng ngời:
Tấm bản đồ khai hoang đất ông cha máu thịt
Lấp lánh ngọn lửa nhiều màu vui say nồng nhiệt
…
(Trích Lại một mình đơn độc lên đường – 1952)*
Không, tôi chẳng chia bôi,Im lặng. Nhưng vết khắc khủng khiếp của số phận mà năm 1938 đã để lại tâm hồn Olga có lẽ không bao giờ phai mờ. Bà chỉ gắng nhìn nhận nó một cách biện chứng, để không làm mất đi nét hồn hậu vốn có trong tâm hồn mình.
Không đổi chác
Cái năm cực nhục tất yếu phải trải qua
Và có ai tự biết được điều này
Thì trong lặng im hồn tôi
Hẳn sẽ đọc được thôi
Tất cả. *
…Nàng thơ của thành phố bị phong toả
Không, Tổ Quốc ơi, dù ký ức đau thương chưa bao giờ dịu vợi
Dù đã chết đi hay oan trái tù đày
Theo tiếng gọi của Người tôi vẫn đội mồ đứng dậy
Không phải chỉ mình tôi, ai cũng dậy mà đi…
Tôi yêu Người không tính toán điều chi
Tình mới mẻ, đắng cay, độ lượng
Ôi Tổ Quốc đẹp xinh trong tâm tưởng
Với tràng hoa mận dại trên đầu
và cầu vồng tối thẫm phía trời cao
Giờ đã điểm.
Giờ khắc này còn có nghĩa gì sao –
Chỉ có tôi và Người hiểu hết
Tôi yêu Người – Không thể khác hơn, tôi biết:
Tôi và Người vẫn là một như xưa
(Với Tổ Quốc – 6/1941)*
Một ngày bình thường như bao ngày khácVề cuộc tấn công chọc thủng vòng vây phong toả Leningrad của quân đội Xô Viết, Olga kể trong thư gửi em gái ngày 24 tháng 1 năm 1943:
Cô bạn đến gặp tôi, chẳng khóc
Chỉ kể rằng vừa đó hôm qua
Đã tiễn đưa người bạn đời duy nhất đi xa
Và cả đêm hai chúng tôi cùng ngồi im lặng
Còn tìm được lời gì để nói nữa chăng
Bởi tôi cũng là người vợ goá của thành Leningrad
Chúng tôi ăn hết bánh mì dành dụm cho ngày
Ủ hơi nhau trong khăn choàng ấm
Thành Len bỗng lặng đi chiều về chầm chậm
Có người nào gõ nhịp mãi bên tai
Chân đã lạnh đi, ngọn nến mệt nhoài
Quanh quầng sáng đang hắt ra leo lét
vòng nguyệt cầu dịu hiền tha thiết
Từa tựa như một áng cầu vồng
Khi trời hửng lên một chút hừng đông
Chúng tôi cùng đi kiếm bánh mì và nước uống
Bỗng nghe thấy ầm ầm tiếng súng
Đại bác trầm hùng, đều đặn, đớn đau
Là tiếng quân đội ta phá vỡ tuyến đầu
Vòng phong toả… Và bắn vào lũ giặc”
(Trích Nhật ký tháng hai - 2/1942) *
Nơi đây yên nghỉ những người con Leningrad“Không điều gì, không ai bị quên lãng”, vì bằng thơ, Olga đã lưu giữ lại tất cả. Cả niềm tự hào chiến thắng, lẫn những nỗi đau mà nhân dân đã trải qua. Nhà thơ Xô-Viết Evgheni Evtushenko đã hoàn toàn có lý khi viết: “Chiến Thắng mang gương mặt khổ đau cùng cực/ Của Olga Fiodorovna Berggoltz”!
Nơi đây yên nghỉ những người dân thành phố - đàn ông, đàn bà, con trẻ
Bên cạnh họ là những người lính Hồng quân cận vệ
Bằng cả cuộc đời mình Họ bảo vệ Người, hỡi Leningrad,
Cái nôi của Cách mạng
Ta không thể kể hết ra đây tên tuổi Họ vẻ vang
Bởi Họ biết bao người nằm dưới phiến đá kia ngàn đời ôm ấp
Nhưng hãy lắng nghe những tảng đá kể chuyện đời cao thấp:
Không ai bị lãng quên và không điều gì bị quên lãng *
… Xuyên suốt tháng năm dài trong tôi vẫn sángNhững vần thơ sau chiến tranh của Olga có cả tình yêu, cả nỗi buồn và những hoang mang. Một lần tôi được nghe các em học sinh một trường phổ thông ở Nga, khi học đến tác phẩm ba bài thơ về thời kỳ xây dựng thuỷ điện ở sông Đông, sông Volga, đã nhận xét: “Sao thế nhỉ? Rõ ràng là viết về lao động vĩ đại của con người, làm chủ thiên nhiên, mà sao đọc cứ thấy buồn…” Nỗi buồn ấy là nỗi buồn “sau chiến tranh”, với những vết thương chưa lành, những mất mát vẫn còn đeo đuổi, với sự gồng mình lên để tiếp tục cuộc sống mới, cuộc sống hoà bình nhưng đôi khi còn xa lạ, khó quen với những con người vừa trải qua bom đạn, hy sinh. Điều này cũng là một cảm nhận của Olga, khi nhà thơ đi thực tế rất nhiều nơi, cùng sống và làm việc với nhân dân mình. Trong nhật ký từ tháng 5 đến tháng 10-1049, bà viết: “Cậu lái máy kéo Sukhov cứ hay than thở với bạn là thấy buồn bã trong lòng, đầu óc cũng làm sao ấy, rằng “không thể sống được, như đánh mất bản thân”… Sau này biết ra, hình như cậu ấy cũng có vấn đề gì đó trong cuộc sống, vợ chồng cự nhau suốt… Chị Zemskova thì hôm qua lại than: “Sau chiến tranh tôi thấy sống khó quá. Vì lão chồng. Đàn ông quen với chiến tranh, mất thói quen với nhà cửa gia đình rồi…”
Vĩnh viễn sáng ngời qua hạnh phúc, đau thương
Là mùa Xuân năm bốn mươi hai – xuân ấy khác thường
Trong thành phố bốn bề phong toả
Cánh én nhỏ nhoi trên lồng ngực tôi buốt giá
Làm bằng miếng sắt tây… tôi tự gắn cho mình
Đây dấu hiệu riêng của tin tức tốt lành
Và có nghĩa “Em chờ thư anh đấy”…
…Có bao nhiêu lá thư đã ghi tên
Tên của tôi, đến với tôi từ bấy
Vì đâu lòng tôi luôn cảm thấy
Đến tận giờ chưa nhận được lá thư yêu?
Để lương tâm được chạm tới mọi điều
Tới cuộc sống bừng lên sau câu chữ
Tới sự thật chảy từng dòng tư lự
Như giữa trưa hè ghé miệng mạch nguồn trong
Ai đã không viết, không gửi đi lá thư tôi mỏi mòn trông?
Kẻ mang tên Hạnh phúc? Khổ đau? Hay Chiến Thắng?
Hay chính là người bạn tôi không tìm ra trong xa vắng
Mãi mãi tôi chẳng nhận ra người?…
(Cánh én trong vòng vây – 1945)*
Lại một mình đơn độc lên đườngHoặc thấm thía “nỗi buồn chiến tranh”, để rồi sống khác đi với cuộc đời mới, những quan tâm mới:
Đường mong ước mà lắc lơ, bất trắc
Niềm phóng khoáng, nỗi âu lo cùng đốt tim bỏng rát
Đứng bậc cửa toa tàu, nỗi ớn lạnh rít qua tai
Dường như tôi đang tìm đến tuổi xuân ở cuối chặng đường dài
Nơi nào nhỉ? Bao giờ? Liệu tôi có nhận ra người khi gặp mặt?
Buổi chiều ấy có xanh biếc lên khao khát?
Ngôi sao mai có hiền dịu như xưa?
(Lại một mình đơn độc lên đường – 1952)*
Nơi cửa sông, khắp vùng đất cháyHay thậm chí, cả những phẫn nộ của một công dân trung thực, lên tiếng trước sự chuyên quyền của thời Stalin:
thoảng mùi hương hoa ngải đắng ngắt lòng
Có mùi hương nào xa vắng thế này không
như điềm báo tai ương,
và chỉ còn lại tình yêu bên tôi như người lính canh áp giải…
…Tôi mải mê hít căng mùi hương sâu lắng
ngải đắng đây, đắng ngắt tình đời
Nỗi đau của loài người giản đơn vô hạn
đã trở thành niềm cay cực của riêng tôi
Từ những cửa đập bê tông vẫn thoảng đưa về mùi hoa ngải
mùi hương yêu bất tử bay đến tận nhà tôi
Thử hỏi làm sao tôi có thể chẳng cất lời
trở về sau đắng cay nói lời yêu khác trước?
(Những lá thư viết trên đường – 1952, 1960)*
Cả ngày trong cuộc họp tôi ngồi… Rõ ràng, các tác phẩm của Olga Berggoltz, dù trong chiến tranh hay khi cuộc sống đã trở về bình lặng, vẫn mãi là “hồn Thời đại – qua trái tim này truyền tiếng nói đến hư không” như bà đã viết!
Rồi biểu quyết, rồi nói điều giả dối
Lời hổ thẹn sao chưa làm tôi chết nổi?
Nỗi chán chường không khiến bạc đầu thêm?
…
Ai đó được tung hô sau khốc liệt chiến trường
Số còn lại đã nằm đây lặng thầm mãi mãi
Máu đổ xuống đất lành không mưu toan lời lãi
Có hay đâu để chuộc mọi lỗi lầm
Chưa bao giờ phạm phải với lương tâm!
(Cả ngày trong cuộc họp tôi ngồi… - 1948, 1949)