23/05/2024 23:32Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn
Đăng bởi hongha83 vào 29/10/2011 02:54
Nguyên tác
兵前水後歲相交,
地是秦中舊樂郊。
潦盡卻逢冬不雨,
饑來還恐盜如毛。
不知何處堪移粟,
曾見齊民已賣刀。
天地豈無傾否日,
詔書頻下使君勞。
Phiên âm
Binh tiền thuỷ hậu tuế tương giao,
Địa thị Tần Trung[1] cựu lạc giao.
Lạo tận khước phùng đông bất vũ,
Cơ lai hoàn khủng đạo như mao.
Bất tri hà xứ kham di túc,
Tằng kiến tề dân dĩ mại đao.
Thiên địa khởi vô khuynh phủ nhật,
Chiếu thư tần hạ sứ quân lao.Dịch nghĩa
Trước thì loạn lạc sau thì nước lũ,
Quanh năm kế tiếp nhau, đất này giống như ở Tần Trung xưa yên vui có đàn tế trời.
Hết lụt lội lại gặp suốt mùa đông không có mưa,
Nạn đói đến, trộm cướp khủng khiếp trở lại khắp nơi.
Không biết có nơi nào chịu được nạn thóc cao gạo kém,
Từng thấy người dân nghèo đã phải bán cả liềm hái.
Trời đất há chẳng có ngày không nghiêng ngả,
Chiếu thu luôn gửi xuống khiến nhà vua phải vất vả.Bản dịch của Phạm Đức Duật
Nước ngập, binh đao mãi chẳng cùng,
Đất này nghi lễ giống Tần Trung.
Lụt vừa qua khỏi, đông càng hạn,
Đói đến liền ngay, trộm vẫy vùng.
Thóc gạo hiếm khan đâu chịu được,
Hái liềm cầm bán cảnh lao lung.
Đất trời nghiêng ngả khôn lường trước,
Vất vả nhà vua chẳng ngại ngùng.
Giáp Dần tức năm 1854.
[1] Địa danh, nay thuộc tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Bạch Cư Di đời Đường có bài thơ đề là “Tần Trung ngâm”.