@ trung30 Đúng là Bạn nhõng nhẽo như con gái, làm ngần ấy bài thơ Đường luật, mà còn hỏi Bàng vận và Chính vận. Lão mỗ cũng xin trả lời cho phải phép vậy. Chính vận là những từ có phần vần (phần đuôi) giống nhau như anh em ruột. Bàng vận là những từ có phần vần (phần đuôi) giống nhau như anh em họ. Bài hoạ trên, Vân là Chính vận. Xanh gọi là Bàng vận cho gần gũi, thân mật; chứ lại xa với Ân quá, vì thêm chữ H dằng sau An. Nhưng dù là Bàng vận, Thông vận, gì gì vận đi nữa, cái tai bảo được thì là được.
Cám ơn Bạn đã theo lời, Vân xem trang trọng khác vời hơn Xanh
陳 世 豪 Phiên âm Huyền Trân Công chúa – Tam thủ Kỳ nhất: Quy Chiêm
Công chúa vu quy vạn lý trường, Tam tòng nhất phụ án tâm thương Quy sơn thanh nhãn phù Trần thất, Quá hải xích thằng giá Chế Vương. Lân tuất Kim chi lâm tịch xứ, Tạ từ Ngọc nữ trấn biên cương. Ba đào khởi xướng nam ai khúc. Nguyệt hạ dạ hàn mịch đạm sương.
Ghi chú: Năm Bính Ngọ (1306), Vua Trần Nhân Tông gả Công chúa Huyền Trân cho Vua nước Chiêm Thành là Chế Mân. Đổi lại, Vua Chiêm dâng đất Ô, Lý.
Dịch nghĩa
Bài thứ nhất: Về Chiêm
Công chúa lấy chồng đường xa vời vợi, Nghe theo cha phải nén đau thương trong lòng. Con mắt xanh giúp nhà Trần mở rộng sông núi, Do duyên phận vượt biển lấy Vua Chiêm. Thương xót cho Cành vàng về nơi hẻo lánh, Phải cám ơn Ngọc nữ đã trấn giữ biên cương. Sóng biển hát khúc hát Nam ai,, Trăng tàn, đêm lạnh phủ lớp sương mỏng.
Dịch thơ: bản dịch 1
Về Chiêm Công chúa lấy chồng vạn dặm xa, Giấu niềm đau xót, thuận lòng cha. Giúp Trần khoanh rộng nơi bờ cõi, Với Chế ghi sâu mối kết hòa. Thương xót Cành vàng vùi đất cát, Cám ơn Thân ngọc tắt phong ba. Nghe như khúc hát Nam ai vọng, Trăng lặn, khói sương phủ nhạt nhòa.
Bài dịch 2:
Về Chiêm Đường xuất giá còn xa vời vợi, Thuận lòng cha, chạnh nỗi bi thương. Giúp Trần mở rộng biên cương, Về Chiêm thành hậu, dặm trường đa mang. Thêm thương xót Cành vàng biệt xứ, Phải chịu ơn Ngọc nữ tha hương. Nam ai, sóng biển vấn vương, Trăng tàn đêm lạnh khói sương mờ thuyền.
陳 世 豪 Phiên âm Huyền Trân Công chúa – Tam thủ Kỳ nhị: Lưu ly
Sinh tử biệt ly thống đoạn trường, Vô thường đoản mệnh khắc Chiêm vương Cữu trung Mân phách mê từ hậu Thủ thượng ấu tình vãn ái nương Tái tận Chiêu Quân hồn hướng Hán Giang đầu Thuấn Phụ chũng vu Tương Càn khôn bộc tử trương phàm đãi Phong thuận hải hòa nhật tán sương.
Dịch nghĩa: Bài 2 – Kẻ ở , Người đi
Cảnh sống chết biệt ly đau như đứt ruột, Cái chết bất thường đến với Chiêm vương. Khí phách người chồng làm người vợ thẫn thờ. Tình cảm của đứa trẻ trên tay níu kéo người mẹ. Mộ Chiêu Quân trên ải xa còn quay về Hán, Nơi chôn vợ vua Thuấn ở chốn sông Tương Kẻ bề tôi của Trời đất đã giương buồm đợi sẵn, Gió thuận, biển hòa, mặt trời chiếu tan sương mù.
Dịch thơ: bản dịch 1
Sinh tử biệt ly nỗi đoạn trường, Mệnh đời đâu tránh kiếp Mân vương. Phách chồng trong cữu mê Chiêm hậu, Tình trẻ trên tay níu mẫu nương. Nhắm mắt Chiêu Quân hồn hướng Hán Trầm mình Vợ Thuấn xác nhờ Tương Đất trời sai đám bề tôi đợi Gió thuận, buồm căng, nắng tản sương.
Dịch thơ: bản dịch 2
Cảnh biệt ly ruột lìa chín khúc Trách Ông Trời bỗng lúc hại nhau. Chồng đây, đinh cữu nhói đau, Con đây, ôm chặt càng sầu vì con. Chiêu Quân chết lòng còn về Hán Vợ Thuấn trầm đầu đoạn sông Tương Nhưng không! Thuyền đã căng buồm Biển hòa, gió thuận, tan sương đợi nàng.
Ghi chú: Năm Đinh mùi (1307) Vua Chiêm thành là Chế Mân chết. Có chuyện, theo phong tục, Công chúa Huyền Trân (Vương hậu Paramecvari) cũng phải hỏa táng theo. Nhưng, Vua Trần Anh Tông sai Trần Khắc Chung giả điếu tang, lén đưa Huyền Trân trở về. Câu 5: Chiêu Quân (còn gọi là Vương Tường, Minh Phi) một trong “Tứ đại mỹ nhân”, được gả cho vua Hung Nô, trở thành Ninh Hồ Yên Chi, vì vậy, đã giữ cho mối hòa hảo Hán - Hồ được 60 năm. Khi chết lòng vẫn nhớ đến Hán. Hiện nay vẫn còn mộ tại Thanh Trủng, Khu Nội Mông. Câu 6: Nga Hoàng và Nữ Anh tên hai người con gái của vua Nghiêu, đều được gả cho vua Thuấn. Vua Thuấn đi tuần thú, bị chết. Hai nàng đến sông Tương, tìm không thấy xác chồng, ngồi khóc, nước mắt làm loang lổ trúc rừng (thành điển: Tương trúc, Tương liêm) và cùng tự vẫn dưới dòng sông này.
Tinh soái giải nguy thụ kịch trường, Hoạn nhân ngộ hạnh, họa thành lương. Thi tao ca nhã dao kiêu tướng, Cầm lạc kỳ hoan cải thục nương. Đông hải nguyệt phong xâm tận vị, Vu sơn vân vũ gián vô cương. Nhật lai niên tái vong thời lượng, Thùy thức chiến thuyền đáo cố hương.
Chuyện: Trần Khắc Chung giả điếu tang, lén đưa Huyền Trân trở về. Tương truyền, hành trình trở về của Huyền Trân kéo dài trên biển hơn 1 năm và mối tình giữa Trần Khắc Chung với Huyền Trân đã nảy nở.
Dịch nghĩa: Hồi hương Tướng giỏi dựng lên màn kịch để giải nguy, Nạn nhân gặp may, dữ hóa thành lành Thơ ca tao nhã làm siêu lòng Tướng giỏi, Thú cờ đàn làm thay đổi cô gái đau khổ. Trăng gió biển Đông trải khắp con thuyền, Thần mây mưa Vu sơn gần gũi ngay bên, Ngày lại đến, năm lại qua, không cần biết, Chẳng rõ, chiến thuyền bao giờ về đến quê hương.
Dịch thơ: Hồi hương Tướng nhà Trần giải cơn tai họa, Chuyện nạn nhân dữ hóa thành may. Thi ca làm rượu thêm say, Cờ đàn khuây khỏa quên ngày tử sinh. Khi trăng gió nghĩa tình khôn tính, Lúc mây mưa say tỉnh sao tường. Tháng qua năm lại khó lường, Ai hay thuyền chiến hồi hương khi nào.
"Mây rồng ai thả giữa sông ngân" Em lại sửa nửa rồi bác ạ
Từ sáng đến giờ cái câu "hình rồng ai vẽ quyện thanh vân" thật sự cưỡng. bởi "hình rồng" thì ko chung với "thanh vân" được, cũng như ông Tây lấy vợ Ta nó cứ khập khiễng thế nào ấy.
Đang nhậu, tự nhiên nhìn trời thấy dải ngân hà, thế là tìm ra cái ý mà vẫn giữ được cái gốc ban đầu. May mắn bác nhỉ.
@ trung30 Trời chiều đã có sông Ngân, Xem ra vài chén đôi phần lơ mơ. Cái mà cần có bấy giờ, Là ai giúp hộ đi đưa gặp chồng. Cẩu vân nhìn thấy mây rồng. Thân ái. Hà Như
Trời chiều chẳng thể có sông ngân Chớ đổ lơ mơ mắt với chân Mới biết làm thơ cần học vấn Cũng như uống rượu phải tu thân Lời hay ý đẹp, thơ không đẹp Mã tốt tiếng ngân, dạ chẳng ngần Nhân thế làm người thơ cũng vậy Mong thành cơ nghiệp khó muôn phần
Dấu ấn thời gian Thế rồng tô đẹp đất Tràng An Như nguyệt tuyên ngôn - Nước vẹn toàn Sông Nhị sôi bùng ngăn thế giặc Núi Nùng em ả đón hiền quan Tạc bia Văn miếu, lưu vinh hiển, Trả kiếm Hồ Gươm, báo khải hoàn Gương sáng Đồng Nhân soi vạn thuở Ba Đình lồng lộng bóng thời gian 昔 印
陳世豪 Phiên âm Tích ấn Thiên niên kỷ độ hưởng bình an, Hạnh vận đan tâm thủ thập toàn. Ký viết: Long thành phi chiến địa, Ngôn vân: thị phố chính thương quan. Hoàng cung cơ chỉ hà phương lộ, Nhĩ thủy phàm chu vị tất hoàn Kim hạc thạch lân giai sở kiến Vân du Thánh đế giáng trần gian.
Dịch nghĩa: Dấu xưa Nghìn năm, mấy khi đất nước được bình yên, May thay, vẫn giữ nguyên màu đỏ trái tim. Xưa viết rằng: Long thành không phải là chiến địa Lại nói thêm: Kẻ Chợ chính là nơi buôn bán. Nền móng cung điện ngại gì mà không lộ ra, Cánh buồm trên sông chưa chắc đã trở lại. Hạc vàng, lân đá đều tận mắt nhìn thấy, Thánh đế cưỡi mây giáng xuống trần gian. Dịch thơ: Dấu xưa Nghìn năm được mấy lúc bình an, Vận mới, lòng son vẫn bảo toàn. Nếu biết: Long thành phi chiến địa, Có hay: Kẻ Chợ chính thương quan. Trăm nền móng đỏ, ba tầng lộ, Bao cánh buồm nâu, mấy chiếc hoàn. Lân đá, hạc vàng đều mắt thấy, Cưỡi mây, Thánh đế giáng trần gian.
Dần dà thế nào, những đám mây Trường sơn, Cũng biết được tên của người chiến sĩ. Chỉ có điều, không giống như bia trên mộ chí, Chữ đã lờ mờ – Chiến sĩ vô danh.
Giả làm khói hương, mây gọi tên anh, Như cành lá khẽ đập vào cánh võng, Như lay chân người đang trong cơn mộng, “Anh còn phải đi, sao nằm mãi ở đây ? ...”
Ước mong của anh không giấu được mây, Muốn được cùng đi đến ngày toàn thắng. Những tháng mưa, mong hiện từng vạt nắng, Đêm chập chờn, về lợp lại mái nhà.
Mẹ già, tận góc trời xa, Chiều đuổi đàn gà có ý đợi mong. Cây lúa đã mượt đòng đòng, Cây cau lại đậu một buồng cau non. Ngày nào cũng nhẩm đến con, Thằng Cu Lớn, tên lúc còn lên ba.
Anh chiến sĩ mơ màng trong ngôi mộ, Chẳng biết chuyện gì, đồng đội đã đi xa, Thời gian lao nhanh, tan vào vô tận. Trời lẫn rừng xanh cứ lòa nhòa.
Theo mây, tôi chọn được hoa, Đặt vào chỗ nắng hửng ra giọt hồng. Ước mong nào nối ước mong? Thơ này, tôi chẳng đành lòng đặt tên.
Trần Thế Hào
(Bài trong Tập thơ Hương Xuân - NXB Hội Nhà Văn 2007)