Trang trong tổng số 24 trang (235 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

buithison

NGƯỜI SINH RA TỪ NÚI ĐÁ Ô

Ký  của Bùi Thị Sơn

Lũ bạn tôi (nhất là lũ  bạn gái) thường nửa đùa nửa thật ghé tai tôi thì thầm:
- Này Giang! Chàng thật tâm đầu ý hợp với mày… Nếu gặp nhau sơm sớm chắc hai người đã nên đôi nên lứa rồi đấy nhỉ!
Tôi ừ  bừa cho xong chuỵện  chẳng vui cũng chẳng buồn trước trò đùa vô thưởng vô phạt của chúng…  “Chàng” năm nay đã bước sang tuổi 69, kề cận với lớp người “cổ lai hy”. Chàng là con của núi Đá Ô - một ngọn núi đã đi vào thơ, ca, nhạc, hoạ…  Có lúc, táo tợn hơn, chúng trêu “chàng” ngay trước mặt tôi,dù biết rõ “chàng” hơn tôi đến… 20 tuổi. “Chàng” mỉm cười độ lượng, ra ý không chấp lũ hậu sinh:
- Anh Tố Hữu bảo: “Người với người sống để yêu nhau” mà.   
Nói xong, “chàng” nháy mắt, hóm hỉnh cười phô chiếc răng khểnh duyên dáng trên khuôn mặt nhăn nheo như quả táo tàu khô.
Đó là hình ảnh của Tẩn Cao Nguyên ngày hôm nay, còn hình ảnh của “chàng” cách đây chừng 10 năm trong mắt tôi quả là một con người …dễ sợ.
Độ ấy, sau hơn 10 năm công tác tại Điện Biên, Tuần giáo,trời xui đất khiến thế nào mà tôi đột nhiên làm đơn xin về Sìn Hồ - một huyện xa xôi, khó khăn nhất tỉnh Lai Châu công tác. Rời ngành giáo dục, tôi được phân công làm chuyên viên cho Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân huyện. Ông chánh văn phòng bé và lùn như người Pích Mê nói như ra lệnh:
- Cô lên gặp đồng chí Chủ tịch Hội đồng Nhân dân huyện!
Tôi rón rén bước vào phòng, lễ phép:
- Chào bác ạ!
Người đàn ông gầy gò, tóc muối tiêu đang chăm chú đọc tài liệu như không nghe thấy gì. Tôi hắng giọng, chào to đến lần thứ ba ông ta mới ngúc ngoắc cái đầu nhòn nhọn trên cái cổ cò dài ngoằng ngoẵng, nhướng đôi lông mày rậm rạp hình chổi sể he hé mắt nhìn tôi qua gọng trên cái mục kỉnh.
Thu hết can đảm, tôi bình tĩnh kéo ghế ngồi và tự giới thiệu:
- Em mới nhận công tác, có gì mong anh chỉ bảo giúp.
Ông lẳng lặng bước đến chiếc tủ hai ngăn cũ kĩ đựng tài liệu kê ở góc phòng, lấy ra tập tài liệu, cẩn thận vuốt thật phẳng phiu rồi đưa cho tôi:
- Được rồi, đây là báo cáo tình hình kinh tế - xã hội, an  ninh quốc phòng của Ủy ban Nhân dân huyện 6 tháng đầu năm, cô đem về phòng mà nghiên cứu.
Nói xong,ông quay trở lại bàn,tiếp tục cắm cúi đọc tài liệu.T ôi lí nhí chào ông rồi lẳng lặng bước về phòng làm việc của mình. Cả buổi sáng đó, cầm tập báo cáo trong tay mà nước mắt tôi cứ chực trào ra: “Rõ dại!Tự dưng lại bỏ nơi đông vui, sầm uất, bỏ nghề mình yêu quý để về làm việc ở đây… báo cáo thì toàn những số liệu khô khan với những ngôn từ lạ hoắc”.
Hôm sau, khi tôi đem trả bản báo cáo, ông hất hàm hỏi:
- Cô thấy báo cáo này thế nào?
Tôi ấp úng:
- Dạ, em cũng chưa hiểu lắm ạ!
-  Chưa hiểu thì phải chịu khó đọc, ghi chép, học hỏi mọi người.
Nhìn nét mặt có vẻ sợ sệt của tôi, giọng ông chùng xuống:
- Làm việc gì cũng vậy, phải tận tâm và kiên trì, bền bỉ. Tôi đã trao đổi với đồng chí Chánh Văn phòng, tuần này giao cho cô thu thập số liệu của các xã và các phòng ban rồi viết thử báo cáo tổng kết năm cho Thường trực Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân duyệt. Lẽ ra đồng chí chánh văn phòng sẽ là người trực tiếp giúp đỡ cô, nhưng vì đồng chí ấy bận tham gia diễn tập phòng thủ ở Pa Há nên viết xong cô cứ giao lại bản thảo, tôi hướng dẫn cô cách sửa.
Tôi tỏ ra lễ phép cám ơn ông nhưng bụng lại thầm nghĩ: “Đúng là một cổ hai tròng. Đã có mười mấy năm công tác, làm thầy cho bao lớp  trẻ, giờ lại phải làm học trò cho hai lão già cổ hủ. Nhìn mặt đã thấy khó đăm đăm…”. Giành mọi thời gian, tôi khoá trái cửa phòng nghiên cứu văn bản và mải mê viết báo cáo. Thay vì những số liệu khô khan cứng nhắc mà các ngành, các xã gửi đến, tôi quyết tâm viết một bản báo cáo thật kêu cho các ông biết trình độ của một giáo viên văn cấp ba đã từng đỗ thủ khoa của Trường Đại học Sư phạm là như thế nào (bởi tôi đã nghe tụi nhân viên văn phòng kháo nhau: Ông chánh văn phòng người Pích Mê đó mới học hết lớp 7 cũ, nguyên là đội trưởng đội gạch thị  trấn, nhờ mối quan hệ đồng hương với một xếp trước đây mà lên được cái chức này; còn ông Chủ tịch Hội đồng Nhân dân là người địa phương, có trình độ đại học nhưng thuộc ngành tự nhiên và lại học theo kiểu hàm thụ). Tôi đã cố gắng nghiền ngẫm, lựa chọn trong lớp tính từ chỉ phẩm chất từ nào đắt giá nhất để ca ngợi sự nỗ lực vươn lên của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân các dân tộc trong huyện sau một năm phấn đấu. Đương nhiên, khi phân tích nguyên nhân có được những kết quả nêu trong báo cáo, tôi hết lời ca ngợi sự chỉ đạo sát sao, thường xuyên và toàn diện của Thường trực Huyện uỷ, Hội đồng Nhân dân và Uỷ ban Nhân dân huyện. Ngày chủ nhật, tôi đem báo cáo về nhà, thức trắng đêm để sửa lại từng câu chữ, nắn nót chép lại thật đẹp rồi hắng giọng đọc một mình, mỉm cười mãn nguyện khi nghĩ báo cáo này sẽ được gửi về Uỷ ban Nhân dân tỉnh, đồng chí Chánh Văn phòng và các đồng chí lãnh đạo Uỷ ban Nhân dân tỉnh sẽ vô cùng ngạc nhiên và trầm trồ thán phục: “Tôi biết cô này mà, bao nhiêu năm là giáo viên giỏi cấp tỉnh có khác…”; “Một người như thế mà không quản khó khăn, gian khổ, lên cái huyện xa xôi như thế. Chẳng mấy chốc mà cô ấy tiến xa mấy bố già thủ cựu, lạc hậu”. Tôi đem cả nụ cười đắc thắng vào trong giấc mộng…
(Còn nữa)
ƯỚC: vòng tay dài rộng bằng trời
Để ôm trọn vẹn muôn người mình yêu...
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

buithison

(Tiếp theo)Sáng hôm sau, tôi vận bộ đồ đẹp nhất và đi làm thật sớm. Đúng giờ, ông Chủ tịch Hội đồng trong bộ đồ màu xám giản dị bước vào phòng làm việc. Đợi đúng lúc ông ta vừa yên vị trên ghế, chưa kịp giở tài liệu ra đọc,tôi nhẹ nhàng bước vào phòng, miệng cười tươi như hoa và giọng nói thì cực kỳ khiêm tốn:
- Dạ, thưa anh! Em đã viết xong bản thảo báo cáo. Em mới tập việc nên còn rất lúng túng… nhờ anh xem và chỉ bảo giúp em.
Ông chủ tịch gật đầu:
- Cô cứ để  đấy! Đầu giờ chiều lên lấy bản thảo về.
Hai tay nâng niu tập bản thảo trao tận tay “xếp”, tôi lễ phép chào ông rồi nhanh nhẹn trở về phòng của mình. Chưa đầy hai tiếng sau, đã thấy cô văn thư gõ cửa :
- Đồng chí chủ tịch hội đồng nhắn chị lên có việc cần trao đổi.
Bước vào phòng,ông kéo ghế mời tôi ngồi rồi pha trà, nói:
- Cô ngồi uống nước, rồi ta cùng trao đổi về bản báo cáo.
Tôi chăm chú nhìn ông với ánh mắt vừa thăm dò vừa mãn nguyện. Sau cái nhíu mày khó hiểu, ông nhìn thẳngvào mặt tôi:
- Cô tốt nghiệp đại học sư phạm khoa văn phải không?
- Dạ, vâng ạ!
- Bây giờ chuyển sang làm công tác văn phòng, cô nên thay đổi cách viết cho phù hợp. Viết báo cáo thì phải theo phong cách văn bản hành chính chứ đừng viết theo lối văn tả cảnh, tả tình như ở trường phổ thông.
Giọng ông nhỏ nhẹ, chân tình mà làm tôi nóng mặt. Tôi đã quá quen với những lời ca ngợi. Từ khi còn đi học cho đến bao nhiêu năm công tác, có ai chê được năng lực của tôi  đâu. Tôi “Vâng ạ!”mà bụng lại nghĩ: “Môn lý luận văn học mình quá giỏi, làm gì mà không phân biệt được các phong cách văn bản…”
Chào ông trở lại phòng làm việc, mắt tôi hoa lên khi nhìn thấy những trang bản thảo tôi nắn nót viết suốt đêm bị ông dùng mực đỏ gạch xoá không thương tiếc. Ông dùng mặt sau trang giấy chữa lại từng ý, cô đọng, khúc triết, có phân tích nguyên nhân ưu điểm và tồn tại, có so sánh với chỉ tiêu kế hoạch của Uỷ ban Nhân dân tỉnh giao, so với Nghị quyết của Hội đồng Nhân dân huyện đề ra và so với cùng kỳ của năm trước. Tôi thực sự ngạc nhiên, khâm phục ông. Lau khô dòng nước mắt tủi hổ cứ trào dâng trên má, tôi đọc đi đọc lại bản báo cáo đã được ông sửa chữa, đối chiếu, so sánh với lối viết bóng bẩy, toàn những ngôn từ hoa mĩ, rỗng tuyếch, khoa trương mà tôi đã bỏ bao công sức tô vẽ lên, tôi xấu hổ với chính bản thân mình…
Chiều hôm đó, tôi đi làm về muộn. Ăn  cơm xong, con gái tôi lấy trong cặp ra một cuốn truyện và khoe: “Mẹ ơi! Hôm nay, cô giáo cho con mượn cuốn truyện cổ tích này hay lắm! Con đọc cho mẹ cùng nghe nhé!”. Tôi gật đầu, chăm chú nghe con gái đọc cuốn truyện. Hai mẹ con bị cuốn hút ngay bởi nội dung từng câu chuyện cũng như cách kể chuyện giản dị bình thản của người viết. Bỗng con gái tôi ngước mắt lên, hỏi : “Mẹ ơi! Cô giáo con bảo tác giả cuốn sách này là người dân tộc Dao Sìn Hồ. Mẹ có biết ông ấy không hở mẹ ?”. Tôi lật trang bìa và vô cùng ngạc nhiên khi nhận ra tác giả cuốn truyện cổ tích dân tộc Dao Sìn Hồ chính là… ông Chủ tịch Hội đồng Nhân dân nghiêm khắc và lạnh lùng. Từ hôm ấy, tôi nhìn ông với ánh mắt thán phục, vì nể. Còn ông vẫn ôn tồn, điềm đạm chỉ bảo cho tôi từng lỗi sai trong bản thảo từng báo cáo. (Mặc dù ông không phải là xếp trực tiếp của tôi, bất cứ văn bản nào tôi cũng tham khảo ý kiến của ông). Một thời gian sau, tôi viết báo cáo tiến bộ rõ rệt, được các lãnh đạo từ huyện đến tỉnh đánh giá cao. Tuy chưa bao giờ nói lời cảm ơn ông song từ trong sâu thẳm đáy lòng, tôi luôn coi ông như một người thầy. Sau này, khi được kết nạp vào Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Lai Châu, tôi mới được biết ông chẳng những là Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh nhà mà còn là hội viên Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam, Hội viên Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam. Anh em ngày càng thêm hiểu biết, quý mến nhau. Ông tâm sự:
“Nhà mình ngày xưa nghèo lắm. Bố mình quanh năm đi làm phu. Hai ông anh mình đều mất sớm. Chỉ còn mình là con trai với hai em gái còn nhỏ.Hàng ngày một mình mẹ lên nương. Mình phải ở nhà trông nhà, trông hai em nhỏ và nấu cơm bằng cái nồi gang mẹ bắc sẵn trên bếp lò (nồi gang nặng mình bê không nổi).
Sau khi Sìn Hồ được giải phóng, bố mình được cán bộ chọn làm tổ trưởng tổ đổi công, không biết chữ cán bộ cử bố mình đi học chữ. Bố mình bảo:
_Tôi già rồi, không học chữ được nữa. Tôi cho thằng con tôi đi học thaycó được không?
Cán bộ đồng ý. Thế là mình được đi học. Học thay bố.Được học cái chữ của Cụ Hồ mình thích lắm! Sau ba tháng học lớp văn hoá tập trung đầu tiên do huyện mở, mình đã học xong chương trình bình dân học vụ (tức làđã biết đọc biết viết). Sau lễ tổng kết lớp học được 10 ngày thì huyện gọi đi công tác ở huyện. Lúc đó mình mới có 15 tuổi. Hôm tạm biệt đội thiếu nhi ở bản, ai cũng sụt sịt khóc.
Gọi là đi công tác cho oai chứ mình chỉ làm “cán bộ”giám mã (chăn ngựa) thôi. Sau có người khác chăn ngựathì mình mới dược phân công tập đánh máy chữ, rồi làmvăn thư tại Ban cán sự châu. Các ông cán bộ thấy mình làm việc gì cũng tốt nên đã  kết nạp mình vào Đoàn thanh niên, công  đoàn rồi vào Đảng. Thế là nhiệm vụ ngày càng nặng nề,nhưng mình cảm thấy rất vui.
Đến năm 1959,Ban cán sự châu cử mình đi học Bổ túc văn hoá ở Khu học xá Sơn là. Sau một tuần học ôn, thi sát hạch,mình được vào học lớp 5 (như vậy mình không được học chương trình cấp 1). Mình được chọn vào học lớp “vệ tinh” nên chỉ trong ba năm đã học hết lớp 10 (lớp 10 đầu tiên của Khu Tự trị Thái Mèo). Những học sinh tốt nghiệp lớp 10 năm đó đềuđi đại học,không tốt nghiệp thì đi học trung cấp.Mình được vào Đại học Bách khoa Hà Nội. Hồi đó, chỉ có một mình mình là người Dao lạc trong biển cả người Kinh nhưng anh em bạn bè không tin mình là người Dao.Về sau mình phải nói dối là người Hưng yên thì họ mới hết nghi ngờ. Sau bốn năm học xong đại học thì mình đi bộ đội trong lúc cuộc chiến tranh phá hoại của giặcMỹ đang diễn ra ác liệt ở miền  Bắc. (Mình đi bộ đội không dám báo tin cho gia đình biết).
Sau một năm học binh khí - khí tài quân sự, mình được phân công về trung đoàn chỉ huy sở của Phòng không - Không quân (lúc đó sơ tán tại tỉnh Hà Tây, ở nhờ trong nhà dân). Tất cả cán bộ chiến sĩ đều đóng vai công nhân vì không quân cũng mặc quần áo xanh như công nhân.
Trận không quân Mỹ ném bom vào đơn vị,đơn vị mình hy sinh 4 đồng chí(2 sĩ quan, 2 hạ sĩ quan). Cả làng Trúc Sơn ra viếng và tiễn đưa các đồng chí về nơi an nghỉ cuối cùng. Tình quân dân trong chiến tranh biết bao cảm động… Chưa đầy môt tuần sau, 2 sĩ quan của đơn vị mình lại hy sinh do Rốc két từ trên máy bayMỹ bắn xuống. Cả đơn vị lại đi đưa tang. Hết buồn lại phải vui, phải lấy tiếng hát át tiếng bom. Cả đơn vị huy động dân quân xã cùng đi lấp hố bom cho bà con tiếp tục trồng cấy.
Khi giặc Mỹ phong toả cảng Hải Phòng, không cho các nước viện trợ giúp Việt Nam thì Chính phủ Việt Nam lại mở “cảng cạn” qua Lạng Sơn.Mình được điều đến sư đoàn 375 bảo vệ “cảng cạn”, là sĩ quan thông tin chỉ huy sở sư đoàn. Đến khi hiệp định Pa ri được ký kết, mình còn đang ở huyện Lạng giang - đến lúc  đó đơn vị mới được lập doanh trại riêng- “Doanh traị  quân đội   nhân dân Việt Nam” ở đất Lạng Sơn. Mình là con trai duy nhất trong gia đình lại thuộc dân tộc ít người nên được chuyển ngành.Mình được chuyển về ban tổ chức tỉnh uỷ Lai Châu. Sau đó vài năm,tỉnh uỷ lại điều động mình trở lại Sìn Hồ công tác.
Trở về  quê hương thì toàn là bà con thân thuộc cả nên mình làm cái gì thì bà con mình cũng biết cả rồi. Mình sống và làm việc tại quê hương của mình tuy rất vất vả,đi công tác ở các xã phải khoác ba lô đi bộ mang theo chăn màn quần áo song cũng rất vui bởi đi đến đâu,bất kể dân tộc nào cũng rất niềm nở chào đón mình. Lớp cán bộ bây giờ sướng hơn mình nhiều quá. Chúng nó dễ quên lớp người trước…”.
…Có lần, anh em ngồi chơi đàm đạo sự đời, tôi mạnh dạn nói với ông:
- Trong mười năm công tác tại Sìn Hồ, em rất vui vì lớp học sinh ngày xưa em dạy ở trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh đều đã trưởng thành, nhiều em giữ các cương vị chủ chốt của huyện. Nhưng sự thực, tỷ lệ các em người Dao mình giữ các trọng trách ở huyện ít quá mặc dù từ lúc học ở phổ thông cho đến các trường chuyên nghiệp các em nào có thua kém ai đâu. Là lớp cha ông đi trước,có trình độ, có năng lực và uy tín, đã từng là Phó bí thư huyện uỷ,chủ tịch uỷ ban nhân dân,nay lại là chủ tịch hội đồng nhân dân huyện, anh có băn khoăn gì về trách nhiệm của mình trước thực trạng này?
Chăm chú nhìn tôi,đôi lông mày chổi sể nheo lại, ông nói - giọng trầm hẳn xuống:
Tôi biết: Trong số học sinh của em có một số người chưa hiểu tôi,thậm chí còn oán trách tôi. Họ quan niệm rằng: “Một người làm quan, cả họ được nhờ”. Vậy mà tôi - một người cùng quê,cùng dân tộc,thậm chí cùng họ hàng lại không tìm cách xin xỏ, bênh vực, nâng đỡ họ. Tôi thì tôi nghĩ khác: Vấn đề cán bộ là thuộc đường lối chủ trương của Đảng, của tập thể cấp uỷ. Hơn nữa, kiến thức được học trong nhà trường mới chỉ là tiền đề. Phải để họ tự nỗ lực vươn lên trong cuộc sống bằng chính thực lực của mình thì mới thực sự là tôn trọng họ. Ngay cả các con của mình,đứa nào có khả năng làm việc gì thì cứ để cho nó làm việc đúng với sở trường của nó. Nếu những người có chút quyền lực chỉ  chăm chăm tìm  “ chỗ ngon” cho con cháu. họ hàng mình thì chỉ làm khổ dân, khổ nước thôi…
Tôi nhìn sâu vào mắt ông, thật sự cảm phục cái tâm, cái tầm nhìn của người đàn ông có vẻ bề ngoài khô khan, khắc khổ này.Có thể ông là một người hơi cứng nhắc, quan niệm hơi cổ hủ (bởi đã có lần tôi thấy ông tỏ thái độ không đồng tình với những cán bộ người Dao đã thoát ly quê hương từ sớm nên trong cách sinh hoạt, nói và viết có phần xa lạ với cách cảm,cách nghĩ của bà con quê hương) song tôi luôn đồng cảm với ông trong nỗi băn khoăn,trăn trở: Làm sao? Làm sao để giữ gìn và phát huy được bản sắc văn hoá dân tộc Dao Sìn Hồ? Làm sao? Làm sao để các dân tộc thực sự tiến bộ, bình đẳng cả trong suy nghĩ và cả trong hành động thực tế?    

                                          Sìn Hồ, ngày 5/4/2007.
                                                                                                                     bts
ƯỚC: vòng tay dài rộng bằng trời
Để ôm trọn vẹn muôn người mình yêu...
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

buithison

Tin văn đọc sáng24/9/2010:  
CHÚC MỪNG NHÀ THƠ HỮU THỈNH THÊM MỘT CHỦ TỊCH NỮA
(Tác giả:Trường Nhân)
 
Chủ tịch Hội Nhà văn
Chủ tịch Hội Liên hiệp
Hai chức nắm trong tay
Đúng là người mẫn tiệp

Ông Rứa cười tặng hoa
Đảng tin trao nhiệm vụ
Tuổi Ngựa oai nhất cụ
Hy vọng còn phi xa...
( Nguồn :Trannhuong.com)
ƯỚC: vòng tay dài rộng bằng trời
Để ôm trọn vẹn muôn người mình yêu...
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

buithison

Tin văn:Home >> Tin tức - Sự kiện- Bình luận
--------------------------------------------------------------------------------

Chuyên đề Văn học nữ quyền: Văn học của phái nữ và một vài xu hướng văn chương nữ quyền Pháp thế kỉ XX




Vừa qua tại Viện văn học đã diễn ra Hội thảo Văn học với chủ đề Văn học nữ quyền. Phongdiep.net sẽ lựa chọn và đăng tải một số tham luận tiêu biểu trình bày trong hội thảo này. Chúng tôi cũng mong muốn sự hưởng ứng và cộng tác của bạn đọc, bạn viết về chủ đề Văn học nữ quyền



Trân trọng



Xem thêm: Văn học nữ quyền: Sức ám gợi trong Bóng đè



Văn học của phái nữ và một vài xu hướng văn chương nữ quyền Pháp thế kỉ XX



Th.S. Nguyễn Giáng Hương - phòng văn học so sánh



Văn học nữ hay văn học nữ quyền


Văn học nữ (women’s literature, littérature féminine) hiểu theo nghĩa rộng không bao hàm một thể loại văn học nhất định như thơ ca, tiểu thuyết hay kịch mà là một loạt các văn bản tồn tại dưới nhiều dạng:

-  nói về phụ nữ

-  viết bởi phụ nữ

-  hướng tới công chúng nữ

-  được nữ giới đọc (ở đây chỉ một bộ phận lớn nữ giới)

-  phục vụ cho một ý kiến hay lý lẽ nào đó của phụ nữ



Các dạng văn học này không tồn tại riêng lẻ mà giao thoa với nhau
trong các văn bản văn học, thể hiện tính đa dạng của văn học nữ. Khác với văn học thiếu nhi được viết bởi người lớn, văn học nữ chủ yếu do nữ giới viết. Văn học viết bởi phụ nữ được công nhận trong nền văn học chung của văn học Pháp với những thành công đáng kể ghi dấu các tên tuổi như Marguerite de Navarre, bà de Staël, Simone de Beauvoir, Marguerite Duras…  nhưng cùng với văn học quần chúng văn học nữ vẫn chỉ bị xếp loại trong văn học bàng tuyến đối lập với văn học chính thống hay văn học bác
học của nam giới.



Điều này không có nghĩa là văn học do phụ nữ viết chỉ là một hạt cát trong biển cát văn học Pháp nói chung, nó giống như văn học dân gian Việt Nam luôn tồn tại song hành với văn học bác học bằng chữ Hán của các bậc nho gia với số lượng tác phẩm lớn nhưng vẫn chỉ là văn học bàng tuyến. Việc sáng tác của phụ nữ chỉ được cho là thứ văn chương đi tìm bản sắc, nghiên cứu tìm tòi về các điều kiện nữ giới, mang tính tự suy ngẫm như nhận định sau đây : « Văn học nữ chủ yếu mang tính tự ngã (từ Louise Labé đến Simone de Beauvoir) và chỉ được diễn đạt dễ dãi trong thể loại hồi ký (từ Sei Shônagon đến Violette Leduc và Kathleen Raine »1. Ở những thế kỷ trước, văn học nữ bị đánh giá là sự suy đồi của cả một nền văn học Pháp vốn được coi là một nền văn học đồ sộ và tiêu biểu của châu Âu.



Người ta lo sợ rằng sự tham gia của người phụ nữ vào lĩnh vực văn chương sẽ làm mất đi giá trị chung của những người cầm bút và sự mất giá này rồi sẽ lây lan đến những ngành khác. Các nữ nhà văn bị ám chỉ bằng từ « bas-bleu » có nghĩa là « nữ văn sĩ rởm ». Theo cuốn Những nữ văn sĩ của chúng ta (Jean de Bonnefon, Emile Faguet, tử tước de Broc, Paul Flat - 1908), phái nữ viết văn được xem như trái với quy luật, trái với tự nhiên và là mầm mống của sự thoái hoá trong xã hội và trong văn đàn. Baudelaire khi nói về George Sand viết rằng : « Người đàn bà Sand là một kẻ trung thực vô đạo đức.



Bà ta luôn luôn giáo huấn đạo đức. Nhưng những điều bà ta làm trước kia toàn là phi đạo đức. Hơn nữa bà ta chưa bao giờ là một người nghệ sĩ. Bà ta có phong cách viết trôi chảy của giới tư sản. Bà ta ngu ngốc, bà ta thô kệch, bà ta ba hoa ; bà ta « có đạo đức » trong những tư tưởng đạo đức, lý luận của bà sâu sắc và tình cảm của bà ta chỉ tinh tế như là một bà giữ cửa hay như những cô gái bao. […] Nếu có một vài người đàn ông phải lòng cái hố tiêu này, thì đây đúng là một minh chứng cho sự xuống cấp của nam giới thế kỉ này » (Trái tim để trần, 1887). Đàn ông được xem như độc quyền về tri thức, lý trí. Những tác phẩm của họ mang tầm vóc của cả một thời đại và có giá trị vĩnh hằng. Trong khi đó, khái niệm văn học nữ lại chỉ quan hệ mật thiết với chủ đề tình yêu, đến
hình ảnh người đàn bà đang yêu trong thể loại văn chương tôn giáo (như Madeleine và Catherine des Roches, Pernette du Guillet, Louise Labé thế kỉ XVI-XVII) và văn chương quần chúng. Các tác phẩm mang một đặc điểm chung là phân tích mối quan hệ giữa hai giới thể hiện qua việc khẳng định quyền tự chủ của phụ nữ hoặc qua việc hư cấu hóa các vai trò truyền thống của phụ nữ trong các tiểu thuyết tình cảm.



Khuynh hướng tình cảm bị chỉ trích là khuyết điểm lớn nhất trong các tác phẩm văn học nữ. Người ta cho rằng nó ngăn cản mọi dụng ý về tư tưởng và nghệ thuật, khiến cho các tác phẩm của phụ nữ phần nhiều mang tính ngây thơ, tự phát. Mặt khác, các nhà
văn nữ thường không tránh khỏi chủ đề về tình dục, giới tính. Họ dường như viết để quyến rũ chứ không phải vì bất kì một dự định văn học lớn lao nào. Về luận điểm này, Barbey d’Aurevilly nhận định : « một người phụ nữ có chỉ có thể có tài năng khi nghe theo những cảm xúc cá nhân, có thể viết chúng ra nhưng rất hiếm khi có khả năng viết nên một cuốn sách vượt ra ngoài những tình cảm ấy » (Tác phẩm và con người, 1887).



Ngoài chủ đề tình yêu, văn học nữ còn có mối liên hệ mật thiết với văn học thiếu nhi. Phụ nữ là những người đầu tiên viết văn học về tuổi thơ và văn học dành cho trẻ em. Thể loại này còn có thể được gọi là văn học nữ về thiếu nhi, nó thể hiện những rung cảm của phụ nữ về tuổi thơ, chức năng giáo dục, cái nhìn cá nhân của trẻ nhỏ… Khác với văn học nữ, văn học nữ quyền xuất hiện như một dòng văn học phản kháng, văn học dấn thân. Dòng văn học này chỉ được viết bởi phụ nữ. Khái niệm văn học nữ quyền đánh dấu sự xuất hiện của một loạt những câu hỏi mới trong diễn ngôn về khoa học văn học : khái niệm về văn học như một cơ cấu trật tự xã hội phụ quyền, định nghĩa và chức năng của tính nữ như một hiệu chỉnh cho cơ cấu trật tự xã hội đó… Evelyne Gauthier nhận
xét : không tồn tại một dòng văn học nào gọi là « văn học nam giới » đối lập với văn học nữ cũng như văn học nữ quyền với một số đặc thù riêng. Quả vậy, văn học do đàn ông viết từ xưa đến nay hiển nhiên được công nhận là văn học chính thống, văn học phổ quát của nhân loại. Cũng chính vì lý do này một số nhà văn nữ đương đại phủ nhận sự tồn tại của văn học nữ cũng như văn học nữ quyền bởi họ cho rằng khi nào còn khẳng định sự tồn tại của
dòng văn học này là còn phủ định vai trò bình đẳng của phụ nữ so với đàn ông trong việc sáng tác văn chương.



Mặt khác, nghiên cứu về giới (gender study, études du genre) dựa trên cơ sở các tác phẩm nữ quyền luận không những bàn về các vấn đề tường minh về quan hệ và bình đẳng giữa hai giới
mà còn hàm ẩn một ý nghĩa xâu xa hơn về mặt lý luận văn học. Nó làm sáng tỏ lập luận của Michel Foucault về vấn đề thiết trị hoá và giải thiết trị. Chân lý không tự nhiên mà có, nó được một thế lực hay quyền hạn sơ khai nào đó chuyển hoá từ một nhận thức của con người. Phê bình (critique) là một hình thức giải thiết trị, đặt lại câu hỏi về những giá trị tưởng như đã thành luật, thành chân lý2. Theo cách đó văn học nữ quyền là một hình thức giải thiết trị cái chân lý về vai trò tối thượng của đàn ông, về những vai trò truyền thống của phụ nữ từ xưa đến nay vẫn được coi là thuộc về « quy luật tự nhiên », là « thiên chức của người phụ nữ ». Nghiên cứu về giới ở phạm vi rộng hơn góp phần khẳng định tính lịch sử tương đối của chân lý.



Văn học nữ quyền không tồn tại tách biệt với văn học nữ, nó nằm bên trong mảng văn học nữ nhưng với một ý đồ đấu tranh bình đẳng giới rõ rệt hơn. Văn học nữ quyền cùng với phong trào bình đẳng giới là điều kiện để văn học nữ nói chung phát triển cả về quy mô lẫn chất lượng. Văn học nữ cũng như văn học nữ quyền Pháp càng ngày càng phát triển nhờ những tiến bộ trong các điều luật xã hội và phong trào nữ quyền. Vào các thế kỉ trước, các nữ văn sĩ chủ yếu thuộc tầng lớp quý tộc hay tư sản. Chỉ từ sau bộ luật Ferry (1881) về miễn phí giảng dạy ở bậc tiểu học, văn chương mới bắt đầu mở rộng đến những tầng lớp xã hội khác. Bổ sung cho luật Guizot (luật về giáo dục tiểu học - 1833) buộc mọi xã có dân số 500 dân phải có một trường học nam sinh, luật Falloux (1850) buộc phải có một trường nữ sinh cho mỗi xã có dân số 800 dân.



Đến năm 1925, học sinh nam và nữ được hưởng cùng một chế độ và nội dung giáo dục như nhau. Những kiến thức ngang bằng với nam giới cũng tạo điều kiện cho nhiều phụ nữ sáng tác các tác phẩm có chất lượng hơn. Năm 1907, phụ nữ có quyền tự do
sử dụng tiền lương của mình. Và đặc biệt vào ngày 21 tháng tư năm 1944, trước làn sóng đấu tranh biểu tình của phụ nữ tại Pháp và trên toàn châu Âu, chính phủ Pháp đã thông qua việc phụ nữ cũng có quyền và nghĩa vụ bầu cử như nam giới. Tuy nhiên, thực tế cho thấy phải đến thế kỷ XXI phụ nữ mới có vị trí tương đối ngang hàng với đàn ông trong các hoạt động chính trị.Nếu như đấu tranh đòi quyền bình đẳng nam nữ về mặt pháp lý đã khó thì công cuộc đấu tranh về mặt tư tưởng lại càng khó khăn dai dẳng hơn. Chính vì vậy, từ sau chiến tranh thế giới thứ II và việc thông qua quyền bầu cử của phụ nữ, phong trào nữ quyền diễn ra chủ yếu trên lĩnh vực tư tưởng với nhiều cây bút sắc bén như Renée Vivien, Germaine Beaumont, Simone de Beauvoir, Nathalie Sarraute, Monique Wittig, Marguerite Duras…
(Còn nữa)
ƯỚC: vòng tay dài rộng bằng trời
Để ôm trọn vẹn muôn người mình yêu...
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

buithison

(Tiếp)Phong trào nữ quyền tại Pháp bắt đầu xuất hiện từ thế kỉ thứ XV, thế kỷ XVII-XIX với những gương mặt tiêu biểu như bà Staël, George Sand, Rachilde và thế kỉ XX đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong công cuộc đấu tranh đòi quyền bình đẳng giới. Trong phạm vi bài viết này chúng tôi chỉ giới hạn trong văn học nữ quyền thế kỷ XX, cụ thể là làn sóng nữ quyền thứ hai (làn sóng nữ quyền thứ nhất : từ thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX chủ yếu diễn ra ở Anh và Mỹ, làn sóng thứ hai : đầu thập niên 60 đến những năm 70,
làn sóng thứ ba : từ những 90 đến nay) với một vài xu hướng tiêu biểu.



Văn học nữ quyền Pháp thế kỷ XX được định nghĩa như một thể loại sáng tác văn chương với một chủ thể-khách thể năng động : người phụ nữ trong quá trình giải phóng mang tính lịch sử. Sự tồn tại của dòng văn học này nằm trong tổng thể các dòng văn học đấu tranh, thậm chí là các dòng văn học chính trị, các dòng văn học cách mạng trong chừng mực nó nhắm tới một sự biến đổi căn bản của các mối quan hệ xã hội.



Một vài xu hướng văn học nữ quyền Pháp thế kỉ XX




Xu hướng trung hoà Năm 1949, tác phẩm Giới thứ hai của Beauvoir ra mắt công chúng như một quả bom phát nổ. Ở Việt Nam, tác phẩm này đã được giới thiệu khác chi tiết trong bài viết « Giới thứ hai của Simone de Beauvoir và vấn đề nữ quyền » (Bùi Thị Tỉnh, Tạp chí thông tin KHXH, số 7/2005). Về bản dịch của tác phẩm hiện chúng tôi chưa xác minh được đã có bản dịch sang tiếng Việt hay chưa. Trong bài viết này chúng tôi chỉ xin điểm qua một số luận điểm khái quát về nữ quyền luận mà bà nêu ra trong tác phẩm. Simone de Beauvoir (1908-1986) là một nhà lý luận tiên phong của chủ nghĩa nữ quyền luận Pháp, gương mặt tiêu biểu cho làn sóng nữ quyền thứ hai. Tác phẩm Giới thứ hai được coi là tác phẩm lý luận dẫn đường cho phong trào phụ nữ hiện đại Pháp. Lần đầu tiên những vấn đề về cơ thể, sinh lý, những cụm từ như « dữ liệu sinh học », « đồng tính » được nhắc đến đã gây nên một cú sốc trong công chúng và giới báo chí nhất là khi bộ môn giáo dục giới tính vẫn còn chưa được biết đến. Đây là một công trình mang
tính khoa học, xã hội và lịch sử xoay quanh nhận định :  Thế giới này luôn luôn thuộc về phái mạnh ». Những cơ sở vật chất và tư tưởng dựa trên đó duy trì sự thống trị về mặt xã hội của đàn ông đối với phụ nữ được đưa ra phân tích. Trước tiên, bà mổ xẻ những dữ liệu sinh học để cho thấy sự khác biệt giữa con cái và con đực trong tự nhiên và những thiệt thòi của con cái so với con đực cùng loài. Tương tự như vậy, ở loài người phụ nữ sinh ra nhỏ bé yếu đuối hơn đàn ông, vì vậy nam giới có vị trí cao hơn trước hết vì họ có sức mạnh. Bà khẳng định rằng : « Mọi lịch sử của phụ nữ đều do đàn ông tạo nên. […] ngay từ đầu với sức mạnh về thể chất họ cũng có luôn uy thế về tinh thần, họ đã tạo ra những giá trị, những tập quán, những tôn giáo ; và không bao giờ người phụ nữ cãi lại đế chế đó ».



Để chứng minh điều đó, Beauvoir đã tổng kết các điều kiện sống về mọi mặt kể cả đời sống tâm lý, tình cảm của người phụ nữ qua các huyền thoại truyền thuyết, qua từng thời kì lịch sử từ thời cổ đại đến hiện đại, đưa ra nền tảng lịch sử xã hội hình thành một người phụ nữ : những xuyên tạc, áp bức đối với trẻ em gái, quan niệm về hôn nhân và sự phục tùng, về thiên chức làm mẹ…. Bà kết luận rằng vấn đề bất bình đẳng nam nữ không do tự nhiên quyết định mà là một vấn đề về văn hoá : « Không phải với cơ thể sinh học, mà với cơ thể sinh học gắn chặt với những điều cấm kị, những luật lệ mà chủ thể ý thức về bản thân và tự hoàn thiện : chính dựa trên những giá trị mà cá nhân nâng cao phẩm cách. » vì vậy mà « Người ta sinh ra không phải là phụ nữ mà trở thành phụ nữ » (câu nói này đã trở thành một tuyên ngôn bất hủ của bà đối với chủ nghĩa nữ quyền luận Pháp). Thực tế, người phụ nữ là một thực thể xã hội được cấu thành bởi những đặc trưng về tâm lý, không phải về sinh lý. Từ đó bà nhận định nếu như bất bình đẳng nam nữ không do tự nhiên quy định thì việc giải phóng phụ nữ dẫn đến bình đẳng giữa nam và nữ là hoàn toàn có thể.





Beauvoir phân biệt hai loại phụ nữ : « phụ nữ bị cưỡng chế » và « phụ nữ độc lập ». Người phụ nữ bị cưỡng chế chỉ có thể có độc lập khi đi làm : « chính khi đi làm người phụ nữ mới có nhiều khả năng vượt qua khoảng cách với nam giới ; chỉ có công việc mới đảm bảo một sự tự do cụ thể ». Tuy nhiên, hai loại phụ nữ này dù sao vẫn có một đặc điểm chung là « bị chia đôi giữa mong muốn nghề nghiệp và lo âu về khuynh hướng giới tính ». Bà hướng tới hình mẫu một người « phụ nữ tự do », tức là người phụ nữ không
bị ép buộc phải hy sinh khuynh hướng phụ nữ của mình để đạt được vị trí cao trong đời sống chính trị xã hội. Điều này chỉ có thể được thực hiện trong một xã hội mà chính nó cũng được giải phóng, đó là một xã hội không có giai cấp vì vấn đề bất bình đẳng nam nữ bắt nguồn chính trong lòng một xã hội có giai cấp.





Theo quan điểm trung hoà về giới, Beauvoir đấu tranh chống lại mọi tư tưởng về sự khác biệt giữa nam và nữ. Bà cho rằng nhân loại bao gồm có đàn ông và phụ nữ là như nhau, đó là một sự ngang hàng của tạo hoá. Thực tế cho thấy ngay cả khi có những thay đổi về mặt thiết chế, luật lệ thì người phụ nữ vẫn chỉ « đội lốt đàn ông » nhưng bản thân bên trong vẫn chỉ là giống cái chịu thua kém giống kia. Để có sự bình đẳng tuyệt đối, « họ [phụ nữ] phải thay da đổi thịt và giành lấy bộ cánh của chính mình », tức là « phụ nữ [phải] là một người đàn ông như những người khác ».Tuy nhiên, để đạt tới sự trung hoà về giới này, một số giá trị của người phụ nữ được đề cao ngang hàng với nam giới nhưng ngược lại những đặc trưng nữ tính cũng sẽ bị phủ nhận. Vì vậy, phong trào phụ nữ những năm 70 theo khuynh hướng này bị đánh giá là đã không chú trọng đến những thế mạnh riêng chỉ có ở phái nữ. Mặc dù vậy, tác phẩm Giới thứ hai của Simone de Beauvoir vẫn được đánh giá là một tác phẩm có vai trò quan trọng. Với tác phẩm này, Beauvoir được coi là người phụ nữ trí thức của thời đại, « nữ triết gia đầu tiên xuất hiện trong lịch sử của đàn ông » (trang nhất số 20 báo Paris Match ).





Simone de Beauvoir tiếp tục cuộc đấu tranh với các hoạt động tích cực như việc kí vào Kiến nghị 343 (Kiến nghị in trên tạp chí Pháp Le Nouvel Observateur ngày 5 tháng tư năm 1971) được kí bởi 343 phụ nữ khẳng định họ đã từng phá thai và sẵn sàng chịu những truy cứu hình sự ngay kể cả hình phạt bỏ tù, tham gia vào MLF3, cho ra mắt trên tạp chí Temps Modernes mục « chủ nghĩa giới tính tầm thường »…



Về mặt văn học, tác phẩm Giới thứ hai trở thành tác phẩm mở đường, cuốn « Kinh thánh » của nhiều thế hệ nhà văn. Nó đã có tầm ảnh hưởng rất lớn đến dòng « văn học giải phóng » sau đó. Nhiều phụ nữ tự cho phép mình sáng tác vì Simone de Beauvoir đã là điều đó. Vào thập niên 50 xuất hiện những nữ tiểu thuyết gia tập trung viết về nhu cầu giải phóng phụ nữ và về những áp bức đối với người phụ nữ. Những nhà văn nữ thuộc dòng văn học này có thể chia làm hai nhóm : nhóm thứ nhất gồm Colette Audry, Christine Rochefort, Claire Etcherelli, chịu ảnh hưởng rất lớn từ Simone de Beauvoir ; nhóm thứ hai gồm những người như Benoîte Groult, Marie Cardinal, Françoise Mallet Joris, Françoise d’Eaubonne… Nhìn chung, dòng văn học này lên án hình mẫu gia đình truyền thống - bố đi làm, mẹ ở nhà. Trong tác phẩm Những vần thơ gửi tới Sophie của Christiane Rochefort, nhân vật  Céline chán chồng, rời bỏ chồng và tìm hạnh phúc bên người bạn gái. Cuốn tiểu thuyết không những phủ định tính vững chắc của nền tảng gia đình truyền thống mà còn tôn thờ ý niệm chạy trốn : người phụ nữ một khi chán nản cuộc sống gia đình thì chạy trốn là giải pháp duy nhất. Mặt khác xu hướng này còn đề cao vai trò của trình độ học vấn và việc làm trong quá trình giải phóng của người phụ nữ. Lấy Annie Ernaux làm ví dụ : bản thân bà đạt đến trình độ thạc sĩ văn chương4 ; tác phẩm Vị trí của bà mô tả việc nghiên cứu học tập giúp người phụ nữ tự giải phóng mình khỏi những gò bó của nguyên tắc xã hội và đạt tới vị trí một người phụ nữ tri thức như thế nào.



Ngoài ra, dòng « văn học giải phóng » còn nêu lên những mong muốn bình đẳng giới của người phụ nữ cũng như những vấn đề về giáo dục giới tính, sức khoẻ sinh sản. Có thể kể đến, chẳng hạn, tác phẩm Người phụ nữ mệt nhoài của Beauvoir đi đầu với dự đoán về một sự tìm kiếm chủ nghĩa nữ quyền ngay trong lòng cuộc sống thường nhật, hay Marie Cardinal đi sâu vào chủ đề giáo dục giới tính trong cuốn Những từ để nói lên điều đó và vấn đề phá thai được phân tích trong Sự kiện của Annie Ernaux…
ƯỚC: vòng tay dài rộng bằng trời
Để ôm trọn vẹn muôn người mình yêu...
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

buithison

(Tiếp)Xu hướng khác biệt



Từ năm 1970 ở Pháp hình thành phong trào nữ quyền mới (nouveau mouvement féministe) kế thừa thành công của phong trào nữ quyền ở Mỹ (của Phong trào quyền lợi của phụ nữ (Women’s Rights Movement) vào những năm 60 tiếp diễn vào năm 1968 với Phong trào giải phóng phụ nữ (Women’s Liberation Movement) với quy mô cấp tiến hơn). Thời kỳ này tại Pháp xuất hiện một xu hướng văn học mới là « xu hướng khác biệt ». Đây là xu hướng đề cao sự khác biệt về giới như một cách để nâng cao giá trị của người phụ nữ. Hai gương mặt tiêu biểu của xu hướng này là Antoinette Fouque và Hélène Cixous.



Antoinette Fouque (1936), nhà phân tâm học, chính trị gia, nhà biên tập được đánh giá là gương mặt tiêu biểu trong phong trào phụ nữ cuối thế kỉ XX. Bà khẳng định khuynh hướng khác biệt của mình với tác phẩm Có hai giới tính : lý luận về khoa học phụ nữ (1989-1995) nói về những điều kiện của phụ nữ và vị trí của họ trong xã hội. Tác phẩm trước hết là một định đề về sự tồn tại của hai giới : « Có hai giới. Đó là một sự thật mà lịch sử cần phải coi đó là nguyên tắc thứ tư, bên cạnh nguyên tắc tự do, bình đẳng và
bác ái ». Fouque nhấn mạnh rằng phần lớn các quan điểm triết học đều khẳng định sự khác nhau cơ bản mang tính tự nhiên giữa nam và nữ. Nhân loại gồm hai giới phân biệt trong đó một giới đã bị lãng quên. Cũng giống như S. de Beauvoir, Fouque cho rằng coi thường phụ nữ là một vấn đề lịch sử phổ quát. Vị trí thấp kém của người phụ nữ do xã hội quy định, không phải là một quy luật tự nhiên. Tuy nhiên, điểm khác biệt giữa Beauvoir và Fouque là ở chỗ theo Fouque, người ta có thể đạt đến sự bình đẳng bằng
cách đưa ra những khác biệt của phụ nữ so với đàn ông. Bà đặc biệt nhấn mạnh đến tính từ « cái » (femelle) để bày tỏ quan điểm tạo hoá ban tặng cho người phụ nữ những thiên chức đặc biệt mà người đàn ông không thể nào có, trong đó có thiên chức làm mẹ. Bà khẳng định : « Cơ thể người mẹ, bộ phận tử cung là môi trường đầu tiên của một con người. Dù sinh ra là con gái hay con trai thì người đàn bà vẫn là nguồn thương yêu đầu tiên. » Coi phụ nữ như một người đàn ông là đã « làm khô cằn người phụ nữ, làm nghèo
đi một phần của nhân loại ». Lần đầu tiên khoa học phụ nữ, ngành phụ khoa được nêu lên nhằm giúp đỡ những người phụ nữ đảm bảo những đặc trưng nữ tính của mình. Đồng thời, Fouque lên án mạnh mẽ thuyết phân tâm học của Freud trong đó ông nhìn người phụ nữ như loại người thứ hai sau đàn ông. Lý thuyết của ông tôn thờ biểu tượng dương vật, biểu tượng của mọi sức mạnh. Theo ông, một con người sinh ra đầu tiên đã cơ bản hình thành là nam ; một số cơ thể phát triển đầy đủ với bộ phận dương vật. Số còn lại không hình thành dương vật sẽ là nữ. Như vậy, phụ nữ chỉ là một người đàn ông bị thiến không có dương vật. Họ bị xem như một sinh thể thiếu hụt, không đầy đủ và vì thế luôn có tâm lý « thèm muốn dương vật ». Bộ phận sinh dục nam hướng ra phía ngoài bản thân đã mang theo sự độc lập chủ động, ngược lại phần sinh dục nữ hướng nội vì vậy nên bị động và luôn phải phụ thuộc vào nam giới.



Phủ nhận ý kiến trên, Fouque khẳng định phụ nữ cũng là một con người hoàn chỉnh như đàn ông bằng cách nhấn mạnh đến những bộ phận sinh dục nữ như dạ con, tử cung và tâm lý « thèm muốn tử cung » của đàn ông. Cơ thể đàn bà không những là đối tượng gây khoái cảm cho đàn ông mà mặt khác còn là nơi chứa đựng và nuôi dưỡng sinh thể con người : « Việc đàn bà mang thai và sinh nở không phải là việc hướng về « phía sau », họ lao động, mang theo, họ ở cùng và đón nhận một cơ thể sắp
ra đời.



Như vậy, họ không hướng về phía bên trong cơ thể mà thu nhận một cơ thể ban đầu vào cơ thể mình, để rồi đưa nó ra phía trước và ra bên ngoài bằng việc sinh ra nó ». Tác phẩm Có hai giới tính : lý luận về khoa học phụ nữ còn là nền tảng cho phụ nữ luận bởi tính chính trị xã hội của nó. Tác phẩm lên án tình trạng bạo lực đối với người phụ nữ. Ở Pháp, trung bình mỗi năm có một người phụ nữ bị giết và 4000 phụ nữ bị cưỡng hiếp. Tác phẩm lên án ngày làm việc đúp của người phụ nữ : làm việc ở cơ quan và nội trợ trong gia đình ; tố cáo tình trạng chênh lệch tiền lương giữa nam và nữ… Sự
xuất hiện của tác phẩm này cũng kéo theo sự ra đời của hàng loạt các cơ quan vì mục đích bảo về quyền lợi của phụ nữ : tổ chức Phong Trào Giải Phóng Phụ Nữ - MLF (1968), Nhà xuất bản Phụ Nữ (1974) cùng với sự ra đời cùa những tủ sách Phụ Nữ, Thời Đại của Phụ Nữ… ở các nhà xuất bản Paris. Về vấn đề bình đẳng giới, Fouque cho rằng điều quan trọng không phải là hoán vị vai trò của nam và nữ mà cần phải có sự trao đổi, chia sẻ giữa hai giới. Đề cao phụ nữ, nhưng bà không có cái nhìn thù hằn với đàn ông, bà vẫn nhận ra được những chức năng và vai trò của đàn ông trong quan hệ giữa nam và nữ. Tuy nhiên, nhận định ấy vẫn còn hạn chế vì khuynh hướng chính của Fouque vẫn là tôn thờ hình tượng đàn bà, cho rằng đây mới chính là tuyệt tác của tạo hoá.



Gương mặt quan trọng thứ hai của xu hướng khác biệt là Hélène Cixous (1937). Sự nghiệp sáng tác mới bắt đầu cách đây bốn mươi năm, Cixous đã có một sự nghiệp sáng tác đồ sộ với khoảng năm mươi đầu sách chủ yếu được xuất bản ở các nhà xuất bản lớn như Grasset, Gallimard, Des femmes và Galilée. Bà còn là nhà soạn kịch với những tác phẩm đã được dàn dựng và trình diễn tại Nhà hát Mặt trời. Bà có 26 sáng tác, 10 tiểu luận và 9 vở kịch cùngnhiều bài báo có giá trị ảnh hưởng lớn. Cixous được coi là
nhà văn, nhà phê bình lý luận lớn nhất hiện còn sống trong làng văn học Pháp. Với những tác phẩm văn học giàu tính trí tuệ tiêu biểu là bài viết Tiếng cười của nữ thần Medusa trên L’Arc số 45 năm 1975, Hélène Cixous khẳng định một tính cách phụ nữ điển hình. Bà phê phán những luận điểm của Simone de Beauvoir. Với quan điểm trung hoà, người phụ nữ không tồn tại vì « phụ nữ là một người đàn ông như bao người khác » (Beauvoir, Giới thứ hai, 1949). Như vậy cũng có nghĩa là giá trị của nữ giới đã bị hạ thấp. Ảnh hưởng bởi thuyết phân tâm học, những tác phẩm văn học của bà đồng thời cũng là những nghiên cứu về sự khác biệt giới tính, đề cao những đặc trưng nữ tính. Phong cách rất chau chuốt, đầy bất ngờ xoay quanh đời sống thể xác nhạy cảm của người phụ nữ và mô tả nó như một hình ảnh huyền bí.


Bà nhấn mạnh xu hướng văn học thể xác của mình khi khẳng định : « Thể xác này là của bạn, hãy nắm lấy nó » (Tiếng cười của nữ thần Medusa, 1975). Văn chương xuất phát từ thể xác và phụ nữ viết bằng thể xác của mình : « phụ nữ là những thể xác. Không còn thể xác thì không còn văn chương ». Bà đi ngược lại văn học lý lẽ bởi lý lẽ là một quyền lực điển hình của đàn ông mà họ dùng để đàn áp phụ nữ. Không theo một chuẩn mực, quy định nào về lý lẽ, Cixous thể hiện quan điểm bằng lối viết hóm hỉnh với nghệ thuật chơi chữ phong phú. Mặt khác bà còn bày tỏ những suy nghĩ về ý nghĩa và khó khăn khi người phụ nữ viết, một trong những hoạt động mà bà coi là góp phần to lớn cho phong trào đấu tranh giải phóng phụ nữ. Bà lên án những quan niệm cuối thế kỉ XIX về văn học nữ quyền như là một sự quá đà, một dòng văn học què quặt. Bà khẳng định khả năng nghiên cứu, sáng tạo của người phụ nữ, đề cao giá trị thẩm mĩ của văn học nữ và kết luận rằng phụ nữ không phải là nhà văn loại hai sau đàn ông. Hélène Cixous quan niệm viết văn là một hoạt động nghệ thuật mở mang tính xã hội sâu sắc, phụ nữ cần phải viết về phụ nữ để khuyến khích những người phụ nữ khác viết : « Tôi viết về phụ nữ : phụ nữ cần phải viết về phụ nữ như đàn ông đã viết về đàn ông » (Tiếng cười của nữ thần Medusa, 1975). Văn chương cũng là một vũ khí quan trọng trong công cuộc giải phóng phụ nữ. Vì vậy, phụ nữ phải dùng cây bút để đấu tranh tư tưởng, giải phóng chính mình và giải phóng cho nữ giới nói chung.





Duras giữa xu hướng khác biệt và thuyết đàn ông lý tưởng Marguerite Duras là bút danh của nhà văn, nhà biên kịch Marguerite Germaine Marie Donnadieu (1914-1996). Sự nghiệp của bà nổi tiếng bởi sự phong phú trong các loại hình sáng tác nghệ thuật. Bà có những đổi mới trong thể loại tiểu thuyết, hoạt động trong lĩnh vực điện ảnh, sân khấu kịch với vai trò là người viết lời thoại, nhà biên kịch, đạo diễn.



Có nhiều ý kiến tranh cãi giữa việc xếp Marguerite Duras vào dòng văn học nữ hay văn học nữ quyền bởi bề ngoài có vẻ như tính chiến luận trong các tác phẩm của bà không rõ ràng. Tuy nhiên những quan điểm theo chủ nghĩa phụ nữ luận, những phê phán về sự khinh miệt phụ nữ được thể hiện một cách hàm ẩn, tinh tế trong các tác phẩm của bà. Chủ nghĩa nữ quyền được diễn đạt gián tiếp qua các sáng tác chứ không trực tiếp là các tiểu luận sắc bén như một số các tác giả nữ khác.



Duras vẫn giữ nguyên hình ảnh phụ nữ truyền thống, đó là người phụ nữ ở nhà, chăm sóc con cái. Các nhân vật nữ chính kết hôn mà không hề có tình yêu, phải chịu một nhịp sống đơn điệu, tẻ nhạt, lặp đi lặp lại từ ngày này qua ngày khác đến mức chán nản, tuyệt vọng. Và ngoại tình được xem như là biểu hiện duy nhất của sự phản kháng, sự trả thù của họ. Tuy nhiên những mối tình vụng trộm ấy cũng chỉ giới hạn trong cuộc sống riêng tư của người phụ nữ, không được nhấn mạnh với giá trị phê phán có phạm vi trên toàn xã hội. Bên cạnh hình ảnh người vợ trong gia đình, nhân vật người đàn bà ăn mày cũng được khắc hoạ khá rõ nét trong một số tác phẩm của Duras đặc biệt là trong cuốn Ngài phó lãnh sự. Hình ảnh người mẹ luôn bị phê phán bởi theo bà chính người mẹ cũng có một phần trách nhiệm trong bi kịch của cuộc đời người con gái, người đàn bà điên ăn mày. Người mẹ giáo dục con gái phải tuân theo những thiết chế cố hữu của xã hội như cái gọi là chân lý về vị trí thấp kém của phụ nữ so với đàn ông, về cái gọi là phẩm hạnh giam hãm người đàn bà… Cũng chỉ vì cái khung của phẩm hạnh và các giá trị đạo đức mà xã hội áp đặt cho phụ nữ mà người mẹ sẵn sàng đuổi con gái mình đi vì tội chửa hoang, đẩy người con gái đó vào cuộc sống khốn cùng của kẻ ăn mày. Người đàn bà ăn mày đó sinh ra một đứa bé gái, cái đói đã khiến bà ta phải bỏ rơi đứa bé sau khi nghĩ cả đến việc giết đứa con của chính mình.



Đến lượt chính bà lại gây nên bất hạnh cho con gái mình. Như vậy, không chỉ có người đàn ông phải chịu trách nhiệm cho nỗi khốn cùng ấy mà cũng có phần của người mẹ. Nói cách khác, nỗi khổ của người phụ nữ cũng chính là do người phụ nữ tạo nên từ thế hệ này sang thế hệ khác.



Khuynh hướng khác biệt của Duras thể hiện ở những quan niệm về thân xác của các nhân vật nam và nữ. Phần lớn các nhân vật nữ đều là những người mẹ bởi họ đang thực hiện thiên chức cơ bản của đàn bà. Duras ca ngợi sự sinh nở, cơ thể người phụ nữ cũng chính là một nơi chốn mà không bao giờ có ở đàn ông. Về mặt trí tuệ, Duras khẳng định sự khác biệt trong lối viết văn của hai giới. Nếu như đàn ông viết theo lý thuyết, theo chuẩn mực thì đàn bà viết bằng lòng ham muốn : « Đàn ông là con cừu, đàn bà là kẻ điên »
(Những người đàn bà ba hoa, 1974). Phụ nữ luôn có xu hướng bứt phá, điên loạn. Từ đó, bà hướng tới một luận điểm mang tính chính trị : tương lai là của phụ nữ, nam tính chỉ là một thứ bệnh tật, đàn ông như một loài đang dần tuyệt chủng cho phụ nữ lên ngôi. Điều này giải thích vì sao các nhân vật nam trong tác phẩm của Duras đều phần lớn mang những đặc điểm nữ tính.




Tuy nhiên, khuynh hướng khác biệt này không đi đến tận cùng với sự thù ghét đàn ông, bà khẳng định : « Chúng ta yêu cái phần ngược lại của chúng ta, yêu phương thuốc của chúng ta, yêu địa ngục của chúng ta » (Suzanna Andler, 1982). Văn học của Duras còn là một sự kiếm tìm hình mẫu người đàn ông lý tưởng. Hình mẫu ấy chỉ thực sự xuất hiện qua hình ảnh nhân vật Joseph trong Đập ngăn Thái Bình Dương, một người đàn ông đẹp, khoẻ mạnh, rắn rỏi, dũng cảm, khéo léo, hiên ngang, không chịu khuất phục đến mức xấc xược. Đó là một người thợ săn hung bạo trong rừng, khi săn các con thú nhưng cũng là người đàn ông dịu dàng biết chinh phục và yêu thương phụ nữ. Nhưng hình ảnh người đàn ông ấy chỉ xuất hiện duy nhất một lần. Những nhân vật nam khác trong các tác phẩm của Duras sau này đều thiếu hụt. Hoặc đó là người đàn ông thô bạo, trịch thượng, luôn ở tư thế của kẻ sở hữu trong mối quan hệ với phụ nữ và trong quan hệ tình dục họ luôn là kẻ chủ động. Hoặc đó là người đàn ông mang một phần nữ tính về tính cách và ngoại hình : dáng vẻ yếu ớt, tinh thần mỏng manh, bất lực trước sự ngoại tình của vợ thậm chí rơi nước mắt trước những tình huống khó khăn… Bằng cách đó, Duras muốn xoá mờ biên giới giữa hai giới nam và nữ. Nhưng những hình ảnh đàn ông không hoàn hảo ấy đồng thời cũng thể hiện một khát khao tìm kiếm người đàn ông lý tưởng của Duras.





Đi cùng với lịch sử phát triển của chủ nghĩa phụ nữ luận, văn học nữ quyền cũng phát triển và là một vũ khí tư tưởng quan trọng của công cuộc giải phóng phụ nữ hướng tới sự bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực. Tuy có nhiều quan điểm khác nhau về vai trò của người phụ nữ và vấn đề bình đẳng nam nữ nhưng tất cả các tác phẩm, nghiên cứu trên đều góp phần lật đổ những quan niệm nam quyền ấu trĩ, khẳng định vị trí của phụ nữ trong xã hội đương thời. Về lĩnh vực văn chương, bản thân những tác giả nữ cũng khẳng định trí tuệ, khả năng sáng tạo của họ. Đó cũng là những minh chứng thật nhất về tài năng của người phụ nữ trong văn học và trong các lĩnh vực.
ƯỚC: vòng tay dài rộng bằng trời
Để ôm trọn vẹn muôn người mình yêu...
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

buithison

MÙA VÀNG
Hai ngày rong ruổi trên ngàn cùng nhà nhiếp ảnh xuất sắc Việt Nam Vũ Nhật để  săn tìm cái đẹp, chúng tôi như lạc vào xôn xang vàng mượt lúa. Không mênh mông, lớp lớp gợn sóng như lúa vàng đồng bằng, lúa ở non ngàn vương vẻ đẹp riêng, kỳ bí và hùng vĩ.
Đoàn gồm năm người, duy nhất chỉ có tôi không mang theo máy ảnh. Bốn người đi tìm cái đẹp của thiên nhiên, cảnh vật, con người nơi hang cùng, ngõ hẻm…Tôi lang thang cảm nhận qua hình khối, đường nét, màu sắc, cái tình của họ gửi gắm trên từng bức ảnh.

Hội viên hội VHNT Lai Châu gồm có:
Bác Lò Văn Chiến, 68 tuổi, dân tộc Pú Nả, nguyên chủ tịch hội VHNT tỉnh Lai Châu.
Trần Ngọc Thắng-23 tuổi, dân tộc Kinh, vừa lái xe cho hội VHNT tỉnh vừa đang tập tham gia công tác nhiếp ảnh.
& con gái tôi.
Tôi nhận ra những thửa ruộng bậc thang vàng xuộm uốn quanh hình đất nước, nghe lòng  xôn xao lạ!.
Lúa chênh chếch, rập rờn sườn đồi như  chiếc ghi - đô nắng khổng lồ che buồng ngủ cô dâu núi đêm tân hôn…
Nhìn kìa! Những lọn lúa  được bà con dân tộc Mông xếp gọn trên thửa ruộng mang hình trái tim mới thơ mộng làm sao!(Ảnh 1)
Từng đoàn ngựa thồ ung dung cõng mùa vàng về bản…(Ảnh 2)
Và đây! Đồng bào Lự  đang hối hả đập và sàng xảy lúa.Vũ điệu của lúa nhịp nhàng,  mê đắm…
Có những con suối trong vắt chảy ngoằn ngoèo qua thung, ôm trọn một vùng   vàng như tơ vào lòng.
Ngập tràn trong cảm xúc giao hòa yêu thương cùng thiên nhiên, cảnh vật, con người, tôi muốn tìm một  người cũng rất yêu cái đẹp để cùng san sẻ liền gọi di động cho anh Khi Tiêu , may mà trong thung lũng vẫn bắt được sóng.
Anh Khi Tiêu bảo: Gửi cho anh vài bức ảnh cháu gái chụp nhé! Và phải có cả em giữa khung cảnh thiên nhiên bao la, hùng vĩ đấy!
Vâng! Anh trai đã yêu cầu thì dù già, dù xấu rồi em đâu dám chối. Có điều  là trèo đèo lội suối, ăn mặc lôi thôi, lếch thếch quá. Em gửi 2 bức ảnh em chụp bên suối nhé!(ảnh 3, 4 )
Gửi thêm bức ảnh khi vừa ở suối lên đường quốc lộ nhé!
Lại nhớ lời anh dặn: Chụp ảnh phải tươi lên! Chị Tiêu bảo: nghe giọng nói qua điện thoại thì vui vẻ, hồn nhiên thế mà ảnh nào gửi về cho anh chị mặt cũng buồn rười rượi. Thì em cười hết cỡ đây này.Tắm mình trong đại ngàn hoang dã, hít thở bầu không khí trong lành, quên hết moị bụi bậm, xô bồ; lại có ánh mắt dõi theo thân thương trìu mến của anh chị, em cảm thấy hạnh phúc ngập tràn. Tội gì mà không cười nhỉ?(ảnh 5)
Chụp một kiểu cùng “Trai rừng” Pú Nả nhé!(Ảnh 6)
Gửi trộm ảnh nhà nhiếp ảnh Vũ Nhật - ủy viên BCH Hội nhiếp ảnh Việt Nam khi đang đi trong lúa (ảnh 7)
Muốn gửi ảnh 2 thành viên trẻ nhất của đoàn, nhưng họ không đồng ý nên đành bó tay. com.
Các thành viên chuẩn bị ảnh tham gia triển lãm nên còn “bí mật” chưa cho gửi phong cảnh thiên nhiên lên mạng. Khất các bạn nhé!
ƯỚC: vòng tay dài rộng bằng trời
Để ôm trọn vẹn muôn người mình yêu...
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

nhật lệ

Tin văn đọc trên Trannhương.com:

HOAN HÔ HÀ NÔI HỦY 29 ĐIỂM BẮN PHÁO HOA, TIẾT KIỆM TIỀN GIÚP ĐỒNG BÀO BÃO LỤT
Trần Nhương
 


TNc: Bản tin TV trưa nay 8-10 đã loan Hà Nội quyết định hủy 29 điểm bắn pháo hoa mừng Đại lễ để lấy tiền ủng hộ đồng bào miền Trung lũ lụt (riêng điểm Mỹ Đình vẫn bắn). Hoan nghênh chủ trương, quyết định đúng, hợp lòng dân, lòng Trời của Hà Nội. Ngày 5-10, tôi viết lá thư gửi ông Chủ tịch và nêu ý kiến đó. Ngày 7-10 báo Người Cao tuổi in bài đó với cái tít Ơi miền trung, ơi đại lễ. Không biết có phải do báo giấy, báo mạng không nhưng điều đó chẳng quan trọng gì. Việc dám quyết mới quan trọng. Hoan hô Hà Nội. Chắc anh linh Lý Thái Tổ cũng hài lòng vì con cháu...
 Tôi xin đưa lại lá thư tôi đã cho lên Trannhuong.com và được nhiều báo, mạng đưa lại...Chỉ trong vài ngày đã có gần 10.000 lượt người đọc.

Kính gửi: Ông Chủ tịch thành phố Hà Nội.

Tôi là Trần Nhương, Nhà văn, công dân thủ đô. Tôi viết thư này xin đề nghị mấy điểm sau đây:
- Cắt giảm 19 điểm bắn pháo hoa (thay vì 29 điểm) và các tiết mục khác không cần thiết để tiết kiệm tiền giúp đỡ bà con lũ lụt miền Trung. Nhân dân chúng tôi sẵn sàng xem pháo hoa qua TV cũng không sao. Hà Nội tổ chức kỉ niệm ngàn năm kéo dài tới 10 ngày liệu có quá lãng phí, phô trương không ? Một nước nghèo vào nhóm cuối của thế giới mà lễ hội quá linh đình liệu có nên không ?

- Sau đại lễ Hà Nội nên công khai cho dân biết số kinh phí chi cho đại lễ là bao nhiêu. Đây là tiền của dân, dân phải biết. Hà Nội nên làm gương về việc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.

Kính thư
Trần Nhương

Cảm phục cái tâm của bác Trần nhương, xin có đôi dòng:

CẢM PHỤC BÁC TRẦN NHƯƠNG

Xưa: quý bác vì thơ hay, tranh đẹp
Nay:trọng thêm nhiệt huyết vì dân
Một lời đề nghị tự tâm
Pháo hoa giảm bắn, tiền phần miền  Trung
Trong cơn bão lũ bịt bùng
Một lời thôi, bớt long đong muôn người.
Anh linh Thái  Tổ ngậm cười
Ngàn năm mãi đẹp tình người Thủ Đô…

                          (5 giờ 30 phút ngày 10/10/2010)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

buithison

ĐI CHƠI CHỢ PHIÊN.
                            (Truyện vui ngắn ngắn)
Mình đi cùng bạn Kiên Giang xuống chợ phiên Pu Ni. Ngày thứ bẩy đẹp trời. Nắng thu vàng óng như mật vương trên cành cây,ngọn cỏ, con đường, khu chợ...Trai gái các dân tộc trong trang phục đủ màu sắc, hồn nhiên vung vẩy dắt tay nhau như trẻ nhỏ, tung tăng khắp chợ.

Có một đôi chừng 16 tuổi dừng lại mua một cái bánh rán, rồi kéo nhau ra góc chợ. Dưới tán lá táo Mèo, cậu bé đảo mắt một lượt không có ai nhìn mình, bèn ghé tai cô bé thầm thì điều gì đó. Đoạn,đưa cái bánh rán lên miệng cắn hờ khoảng 1/3 cái bánh...Cô bé mỉm cười, cũng đảo mắt một lượt, không thấy ai nhìn mình thì nghển cổ, cắn tiếp vào chiếc bánh trên môicậu bé. Cậu bé ra hiệu cho cô bé cùng bỏ 2 nửa bánh ra đo. Phần cô bé nhỏ hơn. Cậu bèn chia lại phần của cậu đúng bằng phần cô bé. Đoạn dôi ra chia đều mỗi đứa một miếng bé xíu bằng nhau, cậu ra hiệu cho cô bé há mồm ra, ném tọt miếng bánh nhỏ xíu của mình vào cái miệng xinh xinh như bông hoa đào hàm tiếu của cô bé. Cô bé cũng làm y như cậu. Mình đứng khuất sau mành ngắm họ, vui lây cái tình mộc mac hiếm có khó tìm nơi đô thị...

Đang mải mê ngoái cổ nhìn họ, anh bạn Kiên Giang khều tay mình thầm thì:
-Nhìn kìa...
Theo tay chỉ của anh, mình thấy hai cậu bé khôi ngô tuấn tú chừng 16, 17 tuổi trong trang phục áo chàm mới tinh, ngạc nhiên hỏi lại bạn:
-Gì kia?
  Anh bạn liếc mắt nhìn xuống chân 2 cậu bé. Lạ! Mặc trang phục dân tộc sao lại đi dép tông Thái Lan? Mà sao còn gắn thêm chiếc gương tròn bé xíu ở quai dép ngay trên ngón chân trỏ thế kia? Mà sao cứ cúi xuống xem hết hàng này đến hàng kia, rồi chẳng mua gì, chỉ bấm nhau cười khúc khích mới lạ chứ!
Thâý bọn mình có vẻ ngac nhiên, Kim Sun- hội viên  hội VHNT tỉnh giải thích:
-Chúng nó đi tìm hiểu con gái mà...
-Tìm hiểu con gái sao phải làm như thế?
-Làm thế cho chắc ăn. Biết tốt rồi mới tìm hiểu chớ...
Thấy mặt bọn mình thộn ra không hiểu, Kim Sun phải nói thẳng:
-Nó cúi xuống xem hàng khi thấy con gái đẹp trong bản đứng đó! Con gái bản mặc váy dày nên không cần mặc thêm phụ tùng bên trong như gái Kinh đâu! Nhìn qua gương, biết chắc là tốt rồi mình mới đặt vấn đề tìm hiểu chứ!
Ôi ! Các chàng trai rừng mới hồn nhiên, ngộ nghĩnh mà láu lỉnh đáng yêu làm sao!!!
ƯỚC: vòng tay dài rộng bằng trời
Để ôm trọn vẹn muôn người mình yêu...
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

khitieu

@Bùi Thị Sơn

Thế chưa post được ảnh à
Để anh post vậy làm quà cho vui
Nhân ngày đại lễ tháng 10
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 24 trang (235 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] ... ›Trang sau »Trang cuối