Trang trong tổng số 13 trang (125 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [7] [8] [9] [10] [11] [12] [13] ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Vòng Xoay Định Mệnh

Ai muốn nghe album hát thơ (gọi là hát chứ đúng ra thì phải là ngâm) "những mảng đời Kiều" thì vào link này nhé http://www.nhipcauonline....stsearch-albumID-131.html

Mọi người nghe thử 1 đoạn "Kể từ khi gặp chàng Kim - Thục An" này nhé
[Media player]
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

NanLan

Vòng Xoay Định Mệnh,

Đây là thể loại hát Chầu Văn, một thể loại gần với Hát Chèo của Đồng bằng Bắc Bộ chứ đâu phải là ngâm thơ. Lại càng không phải là "hát thơ" :d
Có ai quay lại mùa Thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng?
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

letam

Namlan đã viết:
Đây là thể loại hát Chầu Văn, một thể loại gần với Hát Chèo của Đồng bằng Bắc Bộ chứ đâu phải là ngâm thơ. Lại càng không phải là "hát thơ"
Quê hương của Chầu Văn là Nam Định, với cây đàn Đáy người ta có thể hát suốt ngày với rất nhiều lời khác nhau. Ở hội Phủ Giầy các nghệ sĩ đàn hát thâu đêm suốt sáng phục vụ khách thập phương đi lễ. Kết thúc làn điệu thường nghe á a á à à a....
Đài TNVN trước kia có nghệ sĩ Như Hoa hát rất hay. Ca vọng cổ ở Nam bộ cũng có xuất xứ từ Chầu Văn, đàn Đáy trong Nam gọi là đàn Kìm
 Vui là chính - Chính là vui!
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

...!!!...

NamLan đã viết:
Vòng Xoay Định Mệnh,

Đây là thể loại hát Chầu Văn, một thể loại gần với Hát Chèo của Đồng bằng Bắc Bộ chứ đâu phải là ngâm thơ. Lại càng không phải là "hát thơ" :d
"Điên để trắng và đen không đảo ngược
Điên để tình và hận mãi song đôi"
(Đoàn Thị Lam Luyến)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

NanLan

letam đã viết:
Namlan đã viết:
Đây là thể loại hát Chầu Văn, một thể loại gần với Hát Chèo của Đồng bằng Bắc Bộ chứ đâu phải là ngâm thơ. Lại càng không phải là "hát thơ"
Quê hương của Chầu Văn là Nam Định, với cây đàn Đáy người ta có thể hát suốt ngày với rất nhiều lời khác nhau. Ở hội Phủ Giầy các nghệ sĩ đàn hát thâu đêm suốt sáng phục vụ khách thập phương đi lễ. Kết thúc làn điệu thường nghe á a á à à a....
Đài TNVN trước kia có nghệ sĩ Như Hoa hát rất hay. Ca vọng cổ ở Nam bộ cũng có xuất xứ từ Chầu Văn, đàn Đáy trong Nam gọi là đàn Kìm
Đền Phủ Giầy này em đã đi rồi, đợt đó về VN và đi cùng với cơ quan của bà chị.
Ở VN cũng có những cái rất hay mà bên này không có. Đó là cứ vào tháng Giêng vừa ăn Tết cổ truyền xong thì các cơ quan thường tổ chức đi lễ hội Chùa ở các nơi.
Và đúng là được nghe rất nhiều làn điệu điệu hát Chầu văn này.
Có ai quay lại mùa Thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng?
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

Về hai câu Kiều: Sắm sanh nếp tử xe châu / Vùi nông một nắm mặc dầu cỏ hoa


1/ Đứng trước hai câu Kiều này hiện các nhà biên khảo thường đều chỉ chú ý đến việc bình luận về các dị bản :

- NẾP TỬ hay NÍP GIẤY ?
- XE CHÂU hay XE TRÂU ?
- và VÙI NÔNG hay BỤI HỒNG ?

Còn về cái ý chung thì hầu như ai cũng cho rằng đó là 2 câu nói về việc người khách viễn phương mua sắm các thứ cần thiết để chôn cất Đạm Tiên.Điều đó cũng dễ hiểu vì trong tiểu thuyết Trung Quốc, TTTN cũng dựng lên một quang cảnh như vậy…

2/ Chỉ gần đây trong cuốn SO SÁNH DỊ BẢN TRUYỆN KIỀU do Hội Nhà văn xuất bản ,ở Hà Nội , năm 2006 , Lê Quế mới lật ngược vấn đề , nêu lên một cách hiểu mới.. Cách hiểu mới này được đặt trên nền tảng 2 điều :

- trên nền tảng một nguyên tắc lý thuyết ;
- và trên nền tảng một cách phân tích cụ thể đi sâu vào cứ liệu.

Về lý thuyết , Lê Quế chủ trương phải dựa vào cách hiểu của Nguyễn Du chứ không nên dựa vào cách hiểu của TTTN., khi giữa tác giả bản Hán văn và tác giả bản Nôm có sự khác nhau. Theo Lê Quế , trong Nguyễn Du –như sau này sẽ thấy – không có chuyện mua sắm để chôn cất Đạm Tiên như trong nguyên truyện của TTTN . Và Lê Quế theo Nguyễn Du , hiểu SẮM SANH NẾP TỬ,XE CHÂU chỉ là mua đồ hàng mã .để đốt bên / hay trên / ngôi mộ đã có sẵn. !

Chúng tôi hoàn toàn tán đồng quan điểm lý thuyết này.. Xin thử so sánh thêm 2 dị bản của câu số 1465 :

      Dị bản 1) : KÍP TRUYỀN sắm sửa LỄ CÔNG
      Dị bản 2) : KỊP THỜI sắm sửa LẠY CÔNG /hay VÁI CÔNG /:

Dị bản 1) theo sát TTTN và được đa số các bản Nôm cổ khắc in theo : ở LVĐ,QVĐ,TMĐ, cũng như ở KOM .
Dị bản 2) khác TTTN và nguyên văn Nguyễn Du chỉ thấy ở bản DMT

Nếu theo dị bản 1) thì ông quan phủ đường đã đứng ra bênh vực hẳn Thúc sinh và Kiều : ra lệnh tổ chức ngay ( KÍP TRUYỀN SẮM SỬA ) một lễ đám cưới cho 2 người , một đám cưới xuất phát từ phủ đường và do phủ đường đứng ra chủ trương ủng hộ , bản thân ông quan phủ đường đóng vai trò gần gần như là người làm chủ hôn lễ (LỄ CÔNG ).

  Rõ ràng ở dị bản 1) ta có hình tượng một ông quan phủ đường vừa thiên vị , vừa thô bạo :. thiên vị và thô bạo vì không những không chiếu cố gì đến Thúc ông là bên nguyên ; không những chỉ đứng về phía bên bị là Thúc sinh và Kiều mà còn lấy công đường của tòa án làm nơi tổ chức hôn lễ cho họ, theo lệnh truyền của chính quan tòa..

Nếu theo dị bản 2) , trái lại , ta có hình tượng một ông quan phủ đường
vừa công bằng vừa nhã nhặn. Ông chỉ cho những lời khuyên bảo chí tình :

                 Đã đưa đến trước cửa công
             Ngoài thì là nhẽ song trong là tình
                 Dâu con trong đạo gia đình
             Thôi thì dẹp nổi bất bình là xong

Và sau đó cả gia đình họ Thúc đã vâng theo, tự tổ chức việc lạy tạ quan và tổ chức đám cưới kéo nhau ra về..
Dị bản 2 là của Nguyễn Du. Và rõ ràng chúng ta phải theo nguyên tắc của Lê Quế , ủng hộ dị bản này.

3/ Về cứ liệu , Lê Quế đã lưu ý đến các câu :

- Thuyền tình vừa ghé đến nơi
Thì ĐÀ trâm gãy bình rơi BAO GIỜ
- Buồng không LẶNG NGẮT NHƯ TỜ
Dấu xe ngựa ĐÃ RÊU LỜ MỜ XANH

Căn cứ vào chữ nghĩa trong 4 câu đó , Lê Quế phân tích , cho rằng Đạm Tiên chết đã khá lâu , không lẽ xác cứ để thối rữa như vậy ? Nhất định chuyện chôn cất đã có ai đó thực hiện rồi.

  Hơn nữa Lê Quế còn lập luận : không ai mua xe tang bao giờ ! Mua xe tang là rước gở vào mình , một chuyện mà phong tục truyền thống xưa không cho phép làm.
Mua xe tang lại là một chuyện vô lý vì :không lẽ mua mới để rồi vứt bỏ, sau khi chôn cất xong ? Theo kinh nghiệm nhiều vùng ở nông thôn , xe tang thường chỉ là cỗ xe thuê tạm thời chứ không phải là một chiếc xe mà tang gia, tang chủ phải bỏ tiền ra dể mua ! (SẮM SANH ., theo TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT/Hoàng Phê chủ biên / có nghĩa là “mua sắm các thứ” !).
  
Vậy , theo Lê Quế , XE CHÂU chỉ là một thứ hàng mã mua để đốt cho người đã chết .Còn NẾP TỬ tuy Lê Quế tạm thời để nguyên, nhưng Lê Quế cũng đã cho biết T.V.Ký đã thay bằng NÍP GIẤY. Chúng tôi xin thêm : dị bản NÍP GIẤY đã có trong Duy Minh Thị /1872 !

4/ Với cách phân tích như trên thì VÙI NÔNG /hoặc BỤI HỒNG/ nên hiểu như thế nào ? Theo ý chúng tôi :

- Nếu dị bản là VÙI NÔNG MỘT NẤM thì nên hiểu “VÙI là cho xuống đất một cái gì đó rồi phủ cho kín” (theo TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT/HP/ ) và “cái gì đó” ở đây chính là tro than của NÍP GIẤY và XE CHÂU hàng mã vừa đốt xong .Cách lí giải như vậy âu cũng hợp lẽ thường ,bởi vì khi đốt hay hóa vàng cho người đã khuất, người ta cũng thường bới một hố đất nhỏ và cạn bên mộ để làm chỗ đốt và sau khi hóa xong thì “phủ đất lên “cho tro than khỏi bị gió làm bay tung tóe khắp nơi ...
- Còn nếu dị bản là BỤI HỒNG MỘT NẤM thì có thể có hai cách hiểu :

a)     Hoặc hiểu BỤI HỒNG MỘT NẤM thực chất là “tro than một nấm”, BỤI HỒNG là cách nói hình tượng chỉ tro than, dịch từ HỒNG TRẦN mà ra.
b)     Hoặc hiểu BỤI HỒNG MỘT NẤM là “một nấm mồ phụ nữ” , BỤI HỒNG là cách nói chỉ đàn bà con gái , dịch từ hai chữ HỒNG PHẤN . Có điều hiểu theo cách thứ hai này thì sau câu SẮM SANH NÍP GIẤY XE CHÂU có sự bỏ lửng , không đề cập gì đến khâu đốt hóa hai loại hàng mã ấy, mà chuyển ngay sang việc ngẫm nghĩ về cảnh tượng bi thảm của nấm mồ bỏ hoang :

                  Sắm sanh níp giấy xe châu
                      ………………………………….

                  Bụi hồng một nấm mặc dầu cỏ hoa
                  Trải bao thỏ lặn ác tà
                  Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm.

Vậy, ở đây có lẽ Nguyễn Du đã dùng VÙI NÔNG như trong bản Duy Minh Thị 1872./.

Phan Thanh Sơn
Văn hoá Nghệ An.
ĐN sưu tầm.
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

.

Kiều và những dư ba lịch sử



Từ khi Truyện Kiều ra đời đến năm 1945, việc nhìn nhận đánh giá về Thúy Kiều dựa trên hai quan điểm: quan điểm ít nhiều mang tính nhân văn chủ nghĩa của các nhà Nho tài tử, và quan điểm luân lý của Nho giáo chính thống (đôi khi rất trái ngược).
Từ năm 1945 về sau, nổi lên quan điểm đạo đức - chính trị cách mạng vô sản, và đó là điều dễ hiểu.


Trong lịch sử văn chương Việt Nam, nếu phải làm một “bảng tổng sắp” các nhân vật được người đọc phân tích, lý giải, bình luận, chia sẻ mối đồng cảm hoặc bày tỏ sự phản đối nhiều nhất, thì chắc chắn, đứng ở vị trí “top” của “bảng tổng sắp” ấy phải là nàng Kiều trong  Đoạn trường tân thanh  của đại thi hào Nguyễn Du. Cũng dễ hiểu, với một tài năng sáng tạo vào cỡ thiên tài, với một sự nhạy cảm tột cùng của người trong “hội tài tình”, Nguyễn Du đã, qua cuộc đời nàng Kiều, chạm đến vấn đề “mắt bão” của con người ở mọi thời đại: ý thức về phẩm chất và giá trị của cá nhân trong đời sống, khát vọng được giải phóng mọi năng lực và được thỏa mãn mọi nhu cầu lành mạnh, vượt lên trên sự bó buộc của những định kiến thông thường. Điều này tạo ra một lực hấp dẫn rất mạnh trên sự đọc của người đọc nói chung suốt từ khi Đoạn trường tân thanh xuất hiện đến nay. Và đặc biệt, nó đóng vai trò khơi nguồn cho sự ra đời của một loạt văn bản mang chức năng kép: vừa là tác phẩm văn chương, vừa là những bình luận về một phận người trên cõi thế.

Thuộc vào số những tác phẩm bình luận về Kiều được nhắc tới nhiều nhất, và được cho là hay nhất, là bài Đoạn trường tân thanh  đề từ của Phạm Quý Thích:

“Giai nhân nếu chẳng tới Tiền Đường
Món nợ trăng hoa đã dễ trang?  
Mặt ngọc nỡ nào vùi thủy phủ
Lòng băng không để phụ Kim lang
Đoạn trường tỉnh giấc duyên vừa dứt  
Bạc mệnh dừng dây hận vẫn vương  
Nghìn thuở tài tình mang lấy lụy
Vì ai khúc mới gửi bi thương?”

(Bản dịch của Hợp tuyển thơ văn Việt Nam).

Xuyên suốt bài thơ “đề từ” này là một cái nhìn mang đậm màu định mệnh chủ nghĩa: con người chỉ là trò chơi trong tay tạo hóa, người càng có nhiều bao nhiêu những “phẩm chất trội” càng phải hứng chịu bấy nhiêu những cú đòn phũ phàng của số phận. “Nghìn thuở tài tình mang lấy lụy” (Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy), câu thơ này vừa là sự lý giải, vừa là sự cảm thông sâu sắc của ông tiến sĩ họ Phạm với cuộc đời đầy nước mắt của kiều nữ họ Vương. Đoạn kết trong  Thanh Tâm Tài Nhân thi tập tự của Chu Mạnh Trinh còn thể hiện rõ hơn nữa tinh thần này:

“Giống đa tình luống những sầu chung, giọt lệ Tầm Dương chan chứa
Lòng cảm cựu ai xui thương mướn, nghe câu ngọc thụ não nùng  
Cho hay danh sĩ giai nhân, cùng một kiếp hoa nghiêm nặng nợ
Ngán nỗi non xanh đất đỏ, để ai lưu lạc đau lòng
Ta cũng nòi tình
Thương người đồng điệu
Cái kiếp hoa xuân lẩm cẩm
Con hồn xuân mộng bâng khuâng...”

(Đoàn Tư Thuật dịch).

Vậy là, với những người đọc như Phạm Quý Thích, Chu Mạnh Trinh (và còn nhiều người khác nữa), Kiều và số kiếp mười lăm năm chìm nổi của nàng được nhìn nhận qua một lăng kính duy nhất: sự thấu cảm, sự chia sẻ đến đáy của những người “cùng hội cùng thuyền”, những người cùng một “nòi tình” (tình chủng), những người “tài tình”. Họ là những phong lưu danh sĩ, những “nhà Nho tài tử”. Họ ý thức rất mạnh về cái Tôi cá thể của mình qua hai phẩm chất mà Nho giáo vốn luôn dành sẵn “ác cảm”, đó là thị tài (tài cầm, kỳ, thi, tửu) và đa tình. Họ tìm thấy ở giai nhân một nhân vật đối trọng và làm thành bộ đôi ăn ý với mình. Trong một xã hội quân chủ chuyên chế đầy hà khắc như xã hội Việt Nam thế kỷ XIX, chưa đủ điều kiện, nếu không muốn nói là còn tạo ra vô vàn cấm kỵ, để nhà Nho tài tử có thể phát triển thành một loại hình nhân cách mang tính phổ biến và được thừa nhận với toàn bộ giá trị mà họ thủ đắc. Sự “bầm giập” về tinh thần - đôi khi là bầm giập thể xác, theo nghĩa đen - khiến họ đi đến việc tự lý giải vấn đề số phận của mình bằng một quan niệm siêu hình có sẵn: tạo vật đố toàn, ông trời vốn ghét ghen với những người tài sắc, má hồng thì đa truân, tài tử thì đa cùng. Vì lẽ đó, dễ hiểu tại sao khi đọc  Đoạn trường tân thanh  rồi bình luận về nàng Kiều, họ đã viết như trút vào cái viết của mình tiếng đồng vọng bi thương của lịch sử.
Thế nhưng, Đoạn trường tân thanh, khúc Nam âm tuyệt xướng đó dĩ nhiên không chỉ được thưởng thức bởi người đọc là nhà Nho tài tử. Các nhà Nho chính thống cũng “mê mẩn” với  Truyện Kiều không kém, nhưng họ lại nhìn nhận, đánh giá về nàng Kiều theo cách riêng của mình. Nguyễn Văn Thắng viết trong Kim Vân Kiều án:
 
“Hiếu tình có một  
Tài sắc gồm hai...
Kiếp má phấn tới khi rời mệnh bạc
Mảnh lòng son không chút thẹn vừng hồng
Bỏ thịt xương thể giả đức sinh thành, nhắm mắt đưa chân theo lối tạo Qua dâu bể dám ăn lời ước hẹn, trao tơ chắp mối cậy tay em
Phận bèo mây sá quản áng phong trần
Vùng dông tố chẳng phai lòng sắt đá...
Xét khi trước đủ nhân, trinh, hiếu, nghĩa
Thương sau này lâm tuyết, nguyệt, phong, hoa...”

Hay, như bài Quan tiểu thuyết Vương Thúy Kiều ngẫu hứng (Ngẫu hứng nhân đọc tiểu thuyết Vương Thúy Kiều) của Vũ Tông Phan:

“Bên tình bên hiếu nghiệt oan
Vì cha liều kế hương tàn sắc phai
Ba thu quanh quẩn điếm ngoài
Lữa lần một buổi phòng trai (thiền môn) khéo nhờ
Hồng nhan nửa kiếp chưa tha
Mà mong báo đáp tuổi già yên vui
Lòng này ghê phận hoa trôi
Năm canh khắc khoải lần hồi cố hương”
(Vũ Hồng Huy, Vũ Thế Khôi dịch).

Nghĩa là, trong những trường hợp viết về nàng Kiều như đã nêu trên, cơ sở để các tác giả nhìn nhận, đánh giá Kiều không gì khác ngoài những tiêu chuẩn đạo đức mang tính khuôn vàng thước ngọc của Nho gia: trung, hiếu, tiết, nghĩa, trinh. Những biến cố trong cuộc đời Kiều, những cú đẩy của số phận dìm nàng xuống bùn đen, trong mắt họ, chính là cái phông nền để làm bật lên sự “ngời ngời phẩm chất” của một phụ nữ tuyệt vời theo quan điểm đạo đức Nho giáo. Có cái gì đó khá gượng ép trong chuyện này. Bởi lẽ, dường như cảm hứng chủ đạo của Nguyễn Du khi bắt gặp nhân vật Vương Thúy Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân và khi ông “lục bát hóa” chuyện “kỹ nữ hóa” của đời nàng không phải là như vậy: ông không quan tâm lắm đến việc dựng lên một tấm “bảo kính”, ông chia sẻ với triết lý “tài mệnh tương đố” nhiều hơn. Cả cuộc đời Kiều là một cuộc vật lộn giữa “Tài”, “Sắc” với “Mệnh”, chứ không phải là sự tranh thắng giữa “Đức” với “Mệnh”!
Dẫu sao mặc lòng, ngay ở nửa sau thế kỷ XIX, việc ca ngợi Thúy Kiều như một tấm gương đạo đức về người phụ nữ Nho giáo cũng đã phải chịu một phản ứng ngược, trên cùng một tiêu chí đánh giá. Điển hình là thái độ của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ trong bài hát nói Trách Kiều:

“Đã biết má hồng thì phận bạc
Trách Kiều nhi chưa vẹn tấm lòng vàng
Chiếc quạt thoa đành phụ nghĩa Kim lang
Nặng vì hiếu, nhẹ vì tình thời cũng phải
Từ Mã Giám sinh cho đến chàng Từ Hải
Cánh hoa tàn đem bán lại chốn thanh lâu
Bấy giờ Kiều còn hiếu vào đâu?
Mà bướm chán ong chường cho đến thế
Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa
Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm
Bán mình trong bấy nhiêu năm
Đố đem chữ hiếu mà lầm được ai
Nghĩ đời mà ngán cho đời!”

Có thể “diễn nôm” bài hát nói này như sau: Kiều vì chữ hiếu mà phụ tình Kim Trọng để bán mình vào thanh lâu chuộc cha, cũng được. Nhưng đó là lần đầu tiên, lần gặp Mã Giám sinh. Đến lần thứ hai vào thanh lâu, lần gặp Từ Hải, thì vì cái gì? (Trong trường hợp này, nếu thực là người phụ nữ trinh liệt, ắt sẽ tìm đến cái chết để giữ được tiếng thơm). Hết mục đích hợp đạo đức để biện minh cho hành động. Vậy chỉ có thể nói rằng đó là do căn tính tà dâm mà ra, và như thế thì đoạn trường là đáng kiếp! Ai đã từng đọc tác phẩm và tìm hiểu cuộc đời của Nguyễn Công Trứ hẳn sẽ rất ngạc nhiên: một danh sĩ phong lưu hạng nhất, một nhà Nho sành sỏi đủ ngón ăn chơi, một người từng tuyên xưng với thế nhân cái triết lý:

“Cuộc hành lạc được bao nhiêu là lãi đấy
Nếu không chơi thiệt ấy ai bù
Nghề chơi cũng lắm công phu”,

người ấy lẽ ra phải đứng về phía Kiều, tôn xưng ca ngợi nàng mới đúng, chứ không phải là mạt sát nàng như thế này. Có thể, đặt trong bối cảnh ông vua “sính chữ” Tự Đức đang rầm rộ mở cuộc thi vịnh Kiều – mà mục đích không gì khác là biến Kiều thành một “gương báu” đạo đức theo quan niệm Nho giáo để mọi người “soi chung” - bài hát nói của Nguyễn Công Trứ là một hành vi “ngược nước” cố tình, một cách nói “lấy được” nhằm bày tỏ sự phản đối? Dù gì thì dường như Nguyễn Công Trứ cũng tạo ra một tiền lệ. Vì sau này, vào những năm 1920, khi bút chiến với quan điểm ca ngợi Truyện Kiều một cách thái quá của học giả Phạm Quỳnh: “Văn chương mình chỉ độc có một quyển, vừa là kinh, vừa là truyện, vừa là Thánh thư Phúc âm của cả một dân tộc... Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn...”, nhà chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng đã từng dùng đến một cụm từ không thể nặng hơn để nói về nhân vật chính của Đoạn trường tân thanh: con đĩ Kiều! (Dễ thấy, trong những trường hợp mà Truyện Kiều trở thành trường khiên diễn của những quan điểm đạo đức đối lập, rốt cuộc chỉ có nàng Kiều là người chịu thiệt!)
Từ khi Truyện Kiều ra đời đến năm 1945, việc nhìn nhận đánh giá về Thúy Kiều dựa trên hai quan điểm: quan điểm ít nhiều mang tính nhân văn chủ nghĩa của các nhà Nho tài tử, và quan điểm luân lý của Nho giáo chính thống (cho dù ngay từ chính quan điểm này việc đánh giá Kiều đôi khi rất trái ngược). Từ năm 1945 về sau, nổi lên quan điểm đạo đức - chính trị cách mạng vô sản, và đó là điều dễ hiểu. Để khép lại bài viết này, cũng là để thấy rõ hơn dấu ấn của ý thức hệ trong việc tạo ra những dư ba lịch sử quanh một phận người, xin được trích vài đoạn trong bài thơ Bình luận về Kiều của Tế Hanh:

“Người anh hùng trong Truyện Kiều là Kiều
Một cô gái chịu bao nhiêu đau khổ
Bị vùi dập trong đống bùn chế độ
Suốt cả đời giữ trọn mối tình yêu
Kiều cô đơn giữa một lũ yêu ma
Hoạn Thư, Sở Khanh, Khuyển Ưng, Khuyển Phệ
Miếng mồi ngon cho những tên đồ tể
Mã Giám sinh, Tú Bà
Kiều cao hơn những người đàn ông mình đã gặp
Hơn Kim Trọng trong đau khổ yêu thương
Hơn Thúc Sinh bởi bao phen vùi dập
Hơn Từ Hải về nỗi niềm cố quốc tha hương”.

Nguồn: Người đại biểu Nhân dân
(ĐN .S.t)
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

Ám ảnh Tiền Đường

http://i682.photobucket.com/albums/vv185/btmit2006/12-kieu-va.jpg


Ai đã một lần đọc Truyện Kiều ắt hẳn không quên được hình ảnh con sông Tiền Đường dù nó chỉ là tên một con sông như bao con sông khác của đất nước Trung Quốc. Con sông gắn với tuổi thơ, gắn với hồi ức của người già, gắn với niềm nhớ thương của người xa xứ…
Hình như ai cũng có ký ức về dòng sông. Sông đi vào thi ca và quả thật thi ca đã làm cho dòng sông trở nên lung linh diễm lệ trong con mắt của bao người. Sông Tiền Đường xuất hiện trong Truyện Kiều không nhiều nhưng nó là điểm nhấn khiến người đọc phải chú ý. Sông Tiền Đường trong báo mộng của Đạm Tiên, trong sự cứu vớt Kiều của Tam Hợp đạo cô và Giác Duyên, trong lời kể của một người nào đó ở đất Hàng Châu…Có tất cả sáu câu:

 - Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau
 - Hỏi ra mới biết rằng sông Tiền Đường
 - Tiền Đường thả một bè lau cứu người
 - Lân la tìm thú bên sông Tiền Đường
 - Sông Tiền Đường đó ấy mồ hồng nhan
 - Lâm Truy buổi trước, Tiền Đường buổi sau


Câu nào cũng nói lên số phận nàng Kiều, trong đó có 3 câu khẳng định rõ rệt:

Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau
Sông Tiền Đường đó ấy mồ hồng nhan
Lâm Truy buổi trước, Tiền Đường buổi sau.


Đó là định mệnh, đó là một phán quyết đối với Kiều. Kiều có chạy cũng chẳng tránh được trời.

Dân gian xưa quan niệm người chết chỉ chết phần xác còn lại là phần hồn. Phần hồn này luôn quanh quẩn bên cạnh người sống. Người sống có thể hỏi ý kiến, xin phép, khấn nguyện… điều gì đó đối với người đã chết. Tục thờ cúng ông bà của ta ngày xưa, thậm chí cho đến bây giờ vẫn thế. Nguyễn Du cũng quan niệm như vậy: Thác là thể phách, còn là tinh anh. Vì thế con người tài hoa là Đạm Tiên ấy tuy chết rồi nhưng vẫn có thể tương thông được với Thúy Kiều, vẫn có thể nghe được lời lầm rầm khấn nguyện của Thúy Kiều để rồi hiển linh báo ứng qua hình thức trận cuồng phong, qua hình thức giấc mộng… Tất nhiên, Đạm Tiên dù yêu mến Thúy Kiều, dù đồng bệnh tương lân nhưng cũng không thể vì thế mà giúp Kiều hoá giải số phận của mình. Đạm Tiên chỉ là phát ngôn của một lực lượng vô hình nào đó. Và nếu như Kiều có phận mỏng phúc dày để có được đoạn sau đoàn viên trùng phùng đó là do bản thân Kiều “phấn đấu” và tâm thành đã động đến trời chứ đâu phải do Đạm Tiên có lòng giúp đỡ. Lực lượng vô hình đó là ai? Là trời, hoá nhi, hoá công, ông xanh, ông tơ, con tạo… cả thần thánh ma quỷ nữa. Lực lượng ấy đã định ra số phận của Kiều.
Lời hẹn hò của Đạm Tiên mới ác nghiệt lắm thay! Và sao không là một dòng sông khác. Đường đi sứ của Nguyễn Du chẳng phải đã qua bao nhiêu đường sông là gì? Nào Minh giang, Trường giang, Hoàng hà, Tam giang, Tương giang…Ở đất Việt còn bao nhiêu con sông nữa từng đi qua đời ông, đã đi vào thơ ông như Linh giang (sông Gianh), Nễ giang, Thanh Quyết giang, La Phù giang, Đồng Lung giang…và đây nữa dòng sông Lam quê nhà Nguyễn Du là nơi cất giữ bao nhiêu nỗi niềm của ông. Từ đây ông ra đi, cũng từ đây là nơi ông khao khát quay về. Buồn vui trĩu nặng túi thơ ông, chảy miên man từng chặng đường đời ông, và trôi mãi không dừng trong sáng tác của ông. Đúng là trong thơ chữ Hán, Nguyễn Du viết nhiều về sông (16 bài chưa kể những bài không chủ ý viết về sông nhưng hình ảnh sông luôn hiện diện). Có lẽ con sông nào cũng giống con sông nào, tên sông chỉ để phân biệt vị trí địa lý, không nói lên ý nghĩa gì. Sông là nơi con người cất bước đăng trình, cũng là nơi tìm về của người xa xứ. Sông là nơi hò hẹn yêu đương. Sông cũng là nơi tắm mát tuổi thơ. Nhưng sông không chỉ trong mát ngọt lành, không chỉ êm ả chảy xuôi dòng mà còn có những cơn thịnh nộ bởi sóng ngầm, bởi những dòng xoáy nguy hiểm, có cả thuồng luồng, ma quỷ…và quan trọng hơn, nó còn là nơi ghi dấu chấm hết của bao kẻ hận đời.
Đạm Tiên đã hẹn Thúy Kiều ở đó - Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau. Kiếp người ngắn ngủi lắm thay. Người tài hoa, số mệnh càng khắc nghiệt. Kiều đã làm gì, đã gây nên tội lỗi gì ghê gớm để đến nỗi trời bắt phải vứt bỏ cuộc đời mười lăm năm sau đó? Kiều yêu mãnh liệt một chàng trai phong tư tài mạo tuyệt vời, nàng hy sinh bán mình chuộc cha, nàng cư xử có tình có lý với tất cả mọi người. Ngay cả ngày trở về đoàn tụ với gia đình, nàng đã buộc phải dập tắt ngọn lửa tình yêu để cho tất cả mọi người đều không rơi vào tình thế khó xử, nàng thà hy sinh thân mình một lần nữa để mọi việc đều tốt đẹp. Riêng nàng sầu thương hận tủi, riêng nàng nói lời trước mặt rơi châu vắng người, riêng nàng

"Đêm ngày… khép cửa phòng thu.
Chẳng tu thì cũng như tu mới là."


Chuyện vợ chồng, trúc mai, loan phượng là chuyện của Thúy Vân, của Kim Trọng  

"Thừa gia chẳng hết nàng Vân
Một cây cù mộc một sân quế hòe."


Nàng không dám dự phần vào cái cõi, cái miền mà trời không cho phép. Có phải đó là những tội nghiệt của riêng nàng?
Dòng sông Tiền Đường khép lại một quãng đời, cũng lại mở ra một quãng đời khác. Kiều trở về với gia đình, với người thân nhưng ngọn sóng Tiền Đường cứ quanh quẩn, cứ ruỗi theo ám ảnh như một mối nợ đời trả mãi không dứt. Kim Trọng còn đó, vẫn yêu thương nàng như ngày nào, và Thúy Vân vẫn còn kia, tay bồng tay dắt, con cái đề huề, đầm ấm không khí gia đình. Biết rằng ngày xưa trai năm thê bảy thiếp nhưng Thúy Kiều giống như người thừa khi hiện diện trong mái nhà này. Biết rằng "Khi chén rượu khi cuộc cờ " nhưng những đêm dài giữa phòng thu khi cánh cửa tình yêu đã khép, nàng còn lại gì với gối chiếc chăn đơn? Không còn gì cả: không chồng, không con, không tương lai, không hy vọng, không chút lòng ham sống, không cả tiếng đàn đứt ruột "Cuốn dây từ đấy về sau xin chừa… ". Biết rằng con người luôn khát khao hạnh phúc, và dòng sông không thả trôi hạnh phúc mà hạnh phúc cứ đi mãi không trở lại với con người. Cô đơn lẻ loi, một mình một thân, chiếc bóng trơ trọi Sông Tiền Đường ấy là mồ hồng nhan, Kiều đã chết, chết hẳn trong sóng bạc Tiền Đường. Biết rằng kết cấu Hội ngộ - Lưu lạc - Đoàn viên các nhà viết truyện phải theo, nhưng đoạn đoàn viên này đau đứt ruột. Nguyễn Du không cho nàng có được hạnh phúc, ông bắt nàng phải hy sinh, để nhân cách nàng sáng mãi. Nguyễn Du thương Kiều nhưng không thể làm khác được, làm khác là hại đến nhân cách nàng. Biết rằng Kiều dối lòng hay tự mình buộc mình cũng thế - chấm dứt tình yêu cùng Kim Trọng nhưng con người đa tài, đa tình, đa đoan ấy có dứt nổi với lòng mình hay không? Nàng chỉ mới khép cửa phòng thu, chứ chưa chịu đóng chặt cửa phòng. Một sân quế hòe đó, vườn xuân bên ngoài cánh cửa khép đó, có làm nàng nhói lòng, có làm nàng đứt ruột? Biết rằng thân xác nàng đã về kia nhưng hình như linh hồn nàng mãi vất vơ vất vưởng bên sông Tiền Đường…

Lạ thật, Nguyễn Du là người đòi trả giấc mộng mây mưa cho đá vọng phu (Vọng phu thạch), là người đã mắng triều đình nhà Đường chẳng khác gì phỗng đứng để nghìn đời đổ tội oan cho người đẹp Dương Quý Phi (Dương phi cố lý)…Vậy mà ông đã không làm phép để hoá màu hạnh phúc cho đời Kiều.
Để rồi ca khúc bi thương ấy mãi cất cao giọng ru tình và người Việt Nam mỗi lần đến với sông Tiền Đường cứ ngỡ Kiều như còn ở đâu đấy. Kiều lưu lạc và Kiều đã không về. Mười mấy năm và rồi mãi mãi. Con sông Tiền Đường ôm ấp thân xác nàng, vỗ về, ru giấc nàng. Sông Tiền Đường là hiện thân của nàng. Sông Tiền Đường là con sông của đất nước Trung Quốc, nàng Kiều cũng có cái gốc Trung Quốc nhưng hình như không ai xem Kiều là người Trung Quốc cả.

Bất cứ người Việt Nam nào cũng yêu quý Kiều và bao giờ cũng nhìn sông Tiền Đường như chặng cuối của đoạn đường đau khổ Thúy Kiều-

"Tiền Đường xưa ngợp bóng thơ Kiều.
Nay ta đến mồ Kiều bạc mệnh.."


(Qua sông Tiền Đường -Anh Thơ).

Nhất là đối với những người đọc - thi sĩ, lớp người này thấy hết, thấu hết nỗi đau của Kiều:

"Em chọn bến này hoá kiếp hồng nhan"

(Giấc mơ - Gửi Thúy Kiều, Trần Chấn Uy)

"Đành mượn nẻo Tiền Đường cho dứt kiếp khổ đau"

(Nợ Tiền Đường - Đoàn thị Lam Luyến)…

Tuy là thế, nhưng có dứt được kiếp khổ đau không?

"Nước Tiền Đường có rửa sạch Kiều đâu?"

(Mối tình đầu - Hồ Dzếnh)

"Sông nước Tiền Đường có rũ hết phong trần không, vãi Giác Duyên?"

(Trước nhà thờ cụ Nguyễn Du -Lương Khắc Thanh)

"Con tim vẫn đập nơi sông Tiền Đường"

(Ngẫu hứng đàn Kiều - Lê Minh Hoài)

"Tiền Đường sầm sập đêm mưa.
Nước âm u chảy như chưa vớt Kiều
"

(Nguyễn Du - Trần Nhuận Minh)

"Cũng không vớt nổi tiếng kêu Tiền Đường"

(Ru em Thúy Kiều - Trần Mạnh Hảo)…

Vâng, hầu hết các thi sĩ từng đến sông Tiền Đường hoặc chưa đến nhưng nghĩ nhiều, nhớ nhiều, bị ám ảnh nhiều về sông Tiền Đường đều nghĩ như thế. Thậm chí Chế Lan Viên còn khái quát "Sông Tiền Đường ai chẳng đi bên?" (Đọc Kiều). Quả có cái gì đó ám ảnh người đọc chúng ta. Nguyễn Vũ Tiềm từng đặt câu hỏi "Sao không là sông Lam, sông Hương, sông nước mắt. Phải mượn Tiền Đường mà gửi nỗi đau?" (Mượn sông Tiền Đường) nhưng có lẽ cũng không cần thiết phải rạch ròi đến thế. Tuy nhiên khi đặt dấu hỏi như thế, chính nhà thơ cũng bị ám ảnh nhiều bởi con sông này. Nguyễn Du không nói nhiều về sông Tiền Đường (như đã giới thiệu ở trên) nhưng người đọc không quên được hình ảnh con sông này. Bởi vì trong lòng người đọc, Tiền Đường đã dậy sóng, đã cồn lên bão tố, đã giận dữ, phẫn nộ thay cho nàng Kiều. Dòng sông đã cuốn trôi đi hình bóng yêu kiều của người con gái yếu đuối mỏng manh như tơ, như muốn giành lấy nàng từ bàn tay cuồng bạo của cuộc đời. Nhưng không biết dòng sông có xoa dịu niềm đau, có an ủi, ve vuốt, chở che cho một kiếp đời với trăm ngàn cay đắng như nàng không?

"Sông Tiền Đường đã cồn lên cơn bão tố"

(Xưa nay - Phương Thúy)

"Tiền Đường rợn ngọn sóng cồn"

(Đọc Kiều - Nguyễn Khắc Kình)

"Lao xao nhịp sóng Tiền Đường"

(Ở sông Tiền Đường - Phan Thị Thanh Nhàn).

Hay sông Tiền Đường mãi mãi là nấm mồ chôn giấu mối hận thiên thu của nàng

"Chị theo tiếng khóc đáy sông Tiền Đường"

(Tâm sự nàng Thúy Vân - Trương Nam Hương)…

Như chúng ta biết sông Tiền Đường bắt nguồn từ tỉnh An Huy, dài 605 km, con sông nổi tiếng vì phong cảnh hữu tình và vì thủy triều có những lúc bất thường. Theo nhiều người Trung Quốc cho biết do ảnh hưởng lực hút của mặt trăng và mặt trời cho nên cường độ thủy triều của sông này diễn ra theo quy luật riêng. Tức là một tháng có hai lần thủy triều mạnh lên (từ khoảng mồng 1 đến mồng 5, và từ 15 đến 20 âm lịch). Như vậy mỗi năm có 120 ngày thủy triều không bình thường. Ngày 18 tháng 8 âm lịch hằng năm là lễ ngắm thủy triều truyền thống. Nhưng theo dân gian ngày này là ngày sinh nhật của thần thủy triều, người ta tổ chức cúng bái cầu xin sự bình an. Câu chuyện về Ngũ Tử Tư và Văn Chủng thời Xuân Thu Chiến Quốc là hai tướng tài đã chết một cách oan uổng vì người mà họ suốt đời tôn phò trên con sông này… chắn chắn có liên quan. Như vậy, vị trí địa lý cũng như câu chuyện oan khuất của Ngũ Tử Tư và Văn Chủng, kể cả chuyện của Thúy Kiều cũng đã góp phần làm cho con sông mang thêm sắc màu huyền bí và sức mạnh của thần linh. Ngọn sóng cao vút đã cuốn trôi Thúy Kiều: Triều đâu nổi sóng đùng đùng nhưng rồi lại bình lặng hoá thành bè lau của người từ tâm mang trả Kiều về giữa cuộc đời: Tiền Đường thả một bè lau cứu người. Nguyễn Du muốn cho chúng ta thấy điều gì ở đây?
Sóng Tiền Đường đã trả Kiều về giữa cuộc đời hay tiếp tục mang Kiều đến những giấc mơ. Giấc mơ của đau khổ bế tắc và của văn hoá ứng xử tuyệt vời. Kiều trở về với cuộc đời dù không nhận được quyền sống như một người bình thường, nhưng nàng vẫn tồn tại trong lòng người đọc chúng ta bằng tất cả dáng vẻ yêu kiều, thanh sạch, trinh khiết bởi cách ứng xử tuyệt vời của nàng. Thật vậy, nếu Kiều chấp nối với Kim Trọng, thành vợ của chàng, tiếp tục nâng giấc, tính cuộc vuông tròn với chàng một cách dễ dãi thì có lẽ sông Tiền Đường không gây ấn tượng cho người đọc bao nhiêu, Tiền Đường sẽ chỉ là một chặng trong nhiều chặng và rồi Kiều sẽ vượt qua để trở về sum hợp vui vầy.

Nhưng không phải thế, Tiền Đường là chặng cuối và Kiều đã không vượt qua được dù nàng có về lại gia đình, dù Kim Trọng có khác lòng người ta, dù một nhà phúc lộc gồm hai… thì cũng không sao cất được gánh nặng mà Kiều đã đeo mang từ bấy đến giờ, cũng không sao xoá hết những vết thương lòng vẫn còn đang âm ỉ rỉ máu trong nàng. Dù sông có bao la, mênh mông cũng không rửa hết những đau đớn ê chề, và dù Giác Duyên nhân từ thuê ngư phủ thả bè lau chờ đón nàng trong suốt một thời gian dài để vớt nàng lên cũng không làm sống dậy một nàng Kiều hăm hở say mê đến với tình yêu như buổi đầu nữa.

Kiều chỉ còn lại xác thân vật chất với quá nhiều khiếm khuyết. Nàng có thể đem cái khiếm khuyết ấy mà đối đãi với người yêu được sao? Người yêu ta xấu với người. Còn yêu nhau nữa bằng mười phụ nhau/ Còn tình đâu nữa là thù đấy thôi. Không còn thế lực nào ngăn trở, chỉ cần đưa tay ra là chạm vào hạnh phúc. Ấy vậy mà nàng đã không làm được. Đau đứt ruột mà cũng thật trong giá trắng ngần! Kiều đẹp hơn gấp trăm ngàn lần bởi cái điều không làm nổi ấy. Ứng xử của nàng tuyệt vời. Dấu ấn thẩm mỹ của Nguyễn Du bật lên rõ nét khi ta bắt gặp một nàng Kiều ngời sáng trong một thân xác hoa tàn, một nàng Kiều kiêu hãnh nén lòng rời xa hạnh phúc, một nàng Kiều lớn hơn gấp trăm ngàn lần cuộc đời cô trong tác phẩm. Kiều không hạnh phúc nhưng chính nàng đã chỉ ra hạnh phúc cho bao người. Như thế, con người ấy được vớt lên từ sông Tiền Đường hay bước ra từ tâm thức đẫm nước mắt của Nguyễn Du? Hay từ những giấc mơ?
Nguyễn Du đã khẳng định Sông Tiền Đường ấy là mồ hồng nhan. Người đọc Truyện Kiều cũng đã chấp nhận điều đó:

"Nước âm u chảy như chưa vớt Kiều "

(Nguyễn Du - Trần Nhuận Minh).

Cho nên nói sông Tiền Đường ám ảnh Kiều, ám ảnh Nguyễn Du, và ám ảnh cả người đọc chúng ta quả không sai.

Tiền Đường là dòng sông định mệnh của đời Kiều, Tiền Đường là dòng sông bế tắc, suốt đời làm đau đớn Nguyễn Du. Tiền Đường là dòng sông nơi ta thao thức cùng Nguyễn Du, cũng là nơi ta gặp lại nàng Kiều với nhân cách cao vời, với lòng ngưỡng mộ vô bờ bến.

Vì thế không ai quên được con sông Tiền Đường.

Trong giấc mơ xưa đã gặp Tiền Đường
Sông Tiền Đường vẫn ám ảnh những giấc mơ"


(Giấc mơ gửi Thuý Kiều - Trần Chấn Uy)

"Sáng hôm nay bất chợt gặp Tiền Đường.
Gặp hồn Nguyễn Du trên từng con sóng"


(Bất chợt Tiền Đường - Mai Quốc Liên).

Ai trong chúng ta cũng có một dòng sông cho riêng mình, nhưng Tiền Đường lại là ký ức chung của tất cả người dân đất Việt. Bởi nơi đó có một Nguyễn Du đau đời, nơi đó có một Thúy Kiều thắm tình người, nơi đó còn có một thứ triết lý nhân sinh cao vời mà muôn đời sau vẫn sáng lấp lánh.

Lê Thu Yến
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

moneyavakia

trời! ko ngờ bác Đồ am hiểu về Kiều quá, bác đua ra rất nhiều thông tin hay. Nhân đây mình cũng xin đưa ra một vài phát hiện lý thú về truyện kiều ( cái này do đọc sách nên biết)
1. Từ Hải làm nghề gánh mướn và lái đò để kiếm sống vì cụ Nguyễn đã từng nói về TH qua câu thơ "Gươm đàn nủa gánh non sông một chèo".
2.kiều đã từng bị dẫn qua bên Nhật bản qua câu thơ " Nghìn trùng muôn dặm phù tang", xứ phù tang = Nhật Bản
3.Thuý Kiều đã từng đua xe trái phép:" đùng đùng gió giục mây vần, một xe trong  cỏi hồng trần như bay".
4. Qua truyện Kiều, ND đã vô tình chửi vua Tự Đúc, tên cúng cơm của vua TĐ là "Thì" mà mỗi khi nhắc tới "Thì" là ND lại nói xấu:
     -Làm ra "Thì" cũng con người nhỏ nhen.
     -Chẳng phường bán nước "Thì" quân lộn chồng ...
và còn rất nhiều nữa.
5.Từ Hải bị đột biến gen:" vai năm tấc rộng thân mười thước cao" (nhưng đây chỉ là nghệ thuật nói quá của cụ Nguyễn để diễn tả sự cường tráng,to lớn của Th).
Cầm phấn trên tay
  ta vẽ đời tuổi trẻ
Mãi dâng cho đời
  sức khoẻ và tình yêu
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

@moneyavakia: Hoàn toàn đồng ý với bạn. Về các dữ liệu của bạn có lần ĐN đã viết hẳn một tiểu luận "tếu" cho Hội những người yêu Truyện Kiều nhưng...thích đùa, và bị...phang suýt "Toi". Nhân đây bạn xem và có gì thì tha cho...Kiều nha:
1.Ngoài nghề chèo đò, Từ Hải còn là một thương binh. Cũng lấy đúng câu bạn vừa dẫn (chèo đò có...một tay thôi, tay kia...rơi trên chiến trường) và kèm thêm câu khẳng định: "Một tay gây dựng cơ đồ..."
2.Thật ra Thuý Kiều không phải là con cụ viên ngoại họ Vương, mà con của..."Tiger"-ông Ba mươi-Điều này đề nghị bạn vắt óc tra cứu thêm vì sao ĐN nói vậy nhé.
3.Kiều nhiều tuổi hơn Kim Trọng (Cái này bạn lại cũng thử khảo cứu xem nhé. Hơn nữa chàng thanh niên mặc áo xanh trứng sáo  tên Kim này bị...kiết lỵ thường xuyên. Chứng cứ: Mời bạn tự tìm và ta sẽ cùng trao đổi thêm.
v.v và v.v...Hẹn gặp lại bạn nhé. Giờ phải họp rồi.
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 13 trang (125 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [7] [8] [9] [10] [11] [12] [13] ›Trang sau »Trang cuối