Trời tươi xanh ấm áp màu nắng mới, Lâm Tỳ Ni xinh đẹp thắm vườn xuân. Nét thanh lương không khí mát trong ngần, Chào đón Bậc Mẫu Nghi ngày sanh hạ.
Cây to lớn cúi mình nghiêng tán lá, Hoa Vô Ưu hé nở sắc tuyệt trần. Khắp không gian qui tụ các thiên thần, Đầy hoan hỷ tung hoa và tấu nhạc.
Ao sen báu thơm lừng hương bát ngát, Hòa quyện vào khung cảnh mỹ thanh tân. Đó là ngày cả nhân loại trần gian, Chào đón Bậc Siêu Nhân vào cõi thế.
Phật Thế Tôn người đủ đầy trí huệ, Thị hiện thân “Đản Sanh” để độ đời. Lái thuyền từ vượt muôn vạn sóng khơi, Vì sanh chúng đâu sá màng thân xác,
Vương vị bỏ xem tựa hồ dép rách. Vợ con xa dõng cảm cắt dây tình, Ngài không đi tìm hạnh phúc riêng mình. Mà tìm kiếm “hạnh phúc” cho nhân thế,
Tâm Đại Trí quang minh ngời tâm huệ. Tâm Đại Hùng dũng cảm với hiên ngang, Tâm Bi Từ Bác Ái tấm lòng vàng. Tâm Đại Lực vốn không gì khuất phục,
Ba La Mật Hạnh giữ gìn nhẫn nhục. Những đại nguyền ai có thể hành hơn? Ngài bền tâm giữ dạ sắt lòng son, Hạnh nguyện lớn cứu muôn người thoát khổ.
Tâm tự giác, giác tha và tự độ, Mang trong tâm sứ mệnh chẳng phai mờ. Khắp chúng sanh sùng kính với tôn thờ, Chánh Pháp Diệu cắt đứt cầu sanh tử.
Đường Giải Thoát phá tan đi ưu khổ, Pháp Nhiệm Mầu liễu ngộ lý nhân duyên. Pháp Vô Sanh đây chính Pháp Chân Truyền, Pháp cứu độ cho người nương Chánh Trí.
Pháp tuyệt quí hơn những gì tôn quí, Pháp cao siêu hơn muôn Pháp cao siêu. Để trao truyền hàng đệ tử mến yêu, Soi đuốc tuệ đưa người qua bến tục.
Chúng đệ tử được hưởng thừa phúc đức, Được cơm thiền sửa pháp của Như Lai. Được hữu duyên nương tựa cửa Phật Đài, Được nhuần gội trong suối nguồn tươi mát.
Được thảnh thơi trong niềm vui an lạc, Xin quyết lòng tôn Chánh Pháp vinh hưng. Nguyện vạn năm Tam Bảo rạng danh hùng, Ngời sáng mãi với muôn lòng hậu thế.
Lễ Phật Đản niềm hân hoan vô kể, Muôn vạn người náo nức nhớ Từ Tôn. Tưởng ơn xưa rúng động tận tâm hồn, Lòng nhớ đến mấy ngàn năm lịch sử…
Sao anh lại vắng quá lâu? Cả nhà buồn bã u sầu thiếu anh. Căn nhà lạnh lẽo buồn tanh, Ai ai cũng nhớ đến anh Minh Bình. Anh đang bận việc gia đình? Hay đang có chuyện một mình không vui? Anh em kết nghĩa sáu người, Sao không chia xẻ vài lời với nhau? Minh Bình anh ở nơi đâu? Hãy mau trở lại nối cầu đoàn viên. Trong tình thân thiết anh em...
(Lin Zexu; 1785 - 1850), nhà chính trị cuối đời Thanh, chủ trương chống thực dân trong cuộc Chiến tranh thuốc phiện (1840 - 42) ở Trung Quốc. Đỗ tiến sĩ. Năm 1838, làm tổng đốc Lưỡng Quảng, được cử làm khâm sai đại thần chỉ huy việc cấm thuốc phiện ở Quảng Châu (đã ra lệnh tịch thu hơn 2 vạn hòm thuốc phiện, tổ chức đánh lui nhiều cuộc tấn công của quân Anh). Năm 1840, cuộc Chiến tranh thuốc phiện giữa Anh và Trung Quốc bùng nổ, Lâm Tắc Từ bị triệu về kinh luận tội và bị đày đi Tân Cương. Năm 1845, được phục chức, làm tổng đốc Vân Quý.
林则徐十无益格言
Cách ngôn 10 điều vô ích của Lâm Tắc Từ
(Như Mai Phổ Thơ)
1. 存心不善,风水无益;
Tâm còn chưa thiện, phong thuỷ vô ích
Người tâm chứa ác dẫy đầy, Chọn tìm phong thủy tạo xây cơ đồ. Trời đâu dung kẻ mưu mô, Đem tâm bất thiện dựa nhờ thủy phong. Nên mau đổi dạ thay lòng, Cơ duyên may tốt thoát vòng tai ba. Tâm không thiện phước tự xa, Đất lành phong thủy chẳng qua tâm mình.
2. 不孝父母,奉神无益;
Bất hiếu cha mẹ, thờ cúng vô ích
Người có Cha Mẹ trên đời, Lúc sống bất hiếu chết thời cúng dâng. Mâm cao cổ xếp tầng tầng, Chỉ là vô ích mười phần thẹn thân. Nên cung kính dưỡng ân cần, Hiện tiền Cha Mẹ báo ân cao vời. Danh thơm tiếng tốt ngời ngời, Hiếu hiền Cha Mẹ tiếng đời lưu danh.
3. 兄弟不和,交友无益;
Anh em chẳng hòa, bè bạn vô ích
Anh em xào xáo bất hòa, Bày trò xáo thịt nồi da đau lòng. Vỏ đậu nấu đậu khóc ròng, Tình thân không vẹn khó mong bạn cùng. Anh em nghĩa nặng khó dung, Bạn bè vô ích, thủy chung khó tìm. Trọng câu: “Máu chảy về tim”. Máu đào một giọt hơn tìm hồ ao.
4. 行止不端,读书无益;
Việc làm bất chánh, đọc sách vô ích
Người chăm đọc sách Thánh Hiền, Việc làm bất chánh vì riêng lợi mình. Làu thông tám vạn sách kinh, Cũng là uổng phí ba sinh kiếp người. Sách kinh lời đẹp ý tươi, Dạy răn khuyến bảo vì đời tạo duyên. Việc làm bất chánh không hiền, Uổng công đọc sách cần chuyên cả đời.
5. 作事乖张,聪明无益;
Làm trái lòng người, thông minh vô ích
Thông minh tuyệt đỉnh tài hoa, Lòng người trái nghịch chỉ là vô công. Có tài dời núi ngăn sông, Người người không thuận khó mong đạt thành. Thông minh nếu được tâm lành, Thành công vốn của trời dành phước dư. Khiêm cung đức hạnh ôn nhu, Thông minh sẳn có đức từ vang xa.
6. 心高气傲,博学无益
Kiêu căng ngã mạn, học rộng vô ích
Tài cao học rộng kiêu căng, Dưỡng tâm ngã mạn thường hằng tánh quen. Phải đâu học rộng làm nên? Tâm chân không dưỡng khó bền phước sâu. Đem tâm vô ích mong cầu, Kiêu căng ngã mạn chuốc sầu mà thôi. Sống cho đáng sống trên đời, Tâm lành ý sáng rạng ngời niềm tin.
7. 时运不通,妄求无益
Thời vận không thông, vọng cầu vô ích
Vận thời trắc trở không thông, Vái van cúng bái để mong đổi dời. Chỉ là vô ích mà thôi, Nghiệp duyên gieo tạo nay thời trách ai? Muốn nuôi quả tốt tương lai, Từ giờ răn giữ không sai tấc lòng. Nhân lành phước tạo nên công, Đường công danh sáng rực hồng phúc duyên.
8. 妄取人财,布施无益
Trộm cắp của người, bố thí vô ích
Tánh tham trộm cắp giựt giành, Lại đem bố thí mong thành phước duyên. Tạo duyên vô ích lỗi nguyền, Phật Trời chẳng chứng chẳng khuyên thế này. Tâm hiền, dạ kính, thẳng ngay, Yêu người, mến vật, hiển bày tánh chơn. Đức lành rạng tỏ lòng son, Đây là bố thí vẹn tròn mai sau.
9. 不惜元气,服药无益;
Chẳng giữ nguyên khí, uống thuốc vô ích
Người mong sức khỏe dồi dào, Không gìn nguyên khí không sao đạt thành. Linh đơn diệu dược đầy thân, Ăn chơi quá độ thuốc thần ích chi? Dưỡng nguyên khí, giữ tánh bi, Sống đời tiết độ bệnh thì tự xa. Thân cường sức khỏe do ta, Linh đơn diệu dược không qua giữ gìn.
10. 淫恶肆欲,阴骘无益
Dâm tà loạn phép, âm đức vô ích
Tà dâm loạn phép lỗi đầy, Muốn tu âm đức như cây trụi cành. Uổng gieo tích phước duyên lành, Tà dâm tội nghiệp khó sanh phước điền. Tâm nhơ tích tạo phước duyên, Đức âm khó đạt tánh hiền khó sanh. Muốn nuôi âm đức cao thanh, Gìn tâm giữ giới dưỡng thành tính chơn.
Pourquoi le prononcer ce Nom de la Patrie ? Dans son brillant exil mon coeur en a frémie ; Il resonne de loin dans son âme attendrie , Comme le pas connus ou la voix d’un ami .
Montagnes que voilait le brouillard de l’Automne , Vallons que tapissait le grive du matin , Saules dont l’emondeur effeuillait la couronne , Vieille tours que le soir dorait dans le lointain ,
Mu^r noircis par les ans, couteaux, sentier rapide , Fontaines òu les pasteurs accroupies tour à tour Attendaient goute à goute une eau rare et limpide , Et, leur urne à la main, s’entretenaient du jour ,
Chaumière òu du foyer étincelait la flamme , Toit que le pèlerin aimait à voir fumer , Objets inanimés, avez-vous donc une âme Qui s’attache à notre âme et la force d’aimer . Lamartine (1790-1869)
Phỏng dịch bài thơ “ La Terre Natale” của Lamartine