Thơ » Việt Nam » Hiện đại » Phạm Thiên Thư » Đoạn trường vô thanh (1972)
Đăng bởi Vanachi vào 30/03/2008 01:13, đã sửa 5 lần, lần cuối bởi karizebato vào 07/04/2009 00:18
Bức thứ mười một:
(Hồ Tôn Hiến thanh tra đất cũ, nhớ tiếng đàn Thuý Kiều.
Trong tiệc thơ, có nhà văn kể lại đời nàng.
Hồ ban tặng Kim Trọng cây đàn)
Kim về tựa án đăm chiêu
Chập chờn lửa múa, tiêu điều gió đưa
Vào Đông tiết giá mưa thưa
Cành trơ vàng rụng, đào vừa hồng khai
***
Huyện đường kể buổi sáng nay
Có Hồ Tổng đốc nhân ngày thanh tra
Đất bằng nhớ trận phong ba
Thác là ngựa cuốn, gió là cờ reo
Hồ cùng Từ Hải – một keo
Nắng ngời kiếm kích, mây neo lọng tàn (860)
Vài năm giặc giã tan hàng
Mưu cơ đôi kế, ngọc vàng dăm rương
Họ Từ - đối thủ phi thường
Nam bang trí dũng chẳng nhường một ai
Võ văn thao lược là tài
Đức dung hào kiệt, trí ngoài thần cơ
Nêu chính nghĩa, dựng màu cờ
Danh vang trung thổ, khí mờ đẩu tinh
Giá là rường cột triều đình
Bốn phương mở cõi, thái bình cậy tay (870)
Cứ xem người đó ta đây
Trời cao hơn hẳn đất dầy - chẳng sai
Xưa nay những bậc kỳ tài
Tử sanh là chuyện bên ngoài, luận chi
Tấn trò dâu biển qua đi
Nghĩa nhân mới để chút gì làm duyên
Mượn danh đãi sĩ chiêu hiền
Che quân mai phục giáo khiên sáng loà
Họ Từ thừa biết mưu ta
Vẫn vào đất chết như là rong chơi (880)
Vả chăng tuốt mũi gươm ngời
Hai bên kéo một cuộc chơi đến cùng
Dù cho trời đất chẳng dung
Hùm thiêng trong rọ vẫy vùng chưa thôi
Lại thêm thây chất nên đồi
Nát nhầu cỏ nội, tả tơi lá ngàn
Hẳn Từ chẳng vị giàu sang
Lồng son sao đáng phượng hoàng khép thân
Mà e gió dập mây vần
Thêm hồn vô tội dưới chân ngựa giày (890)
Một khi nát cỏ tàn cây
Đời Kiều ắt hẳn thêm đày đoạ mưa
Anh hùng nhi nữ nghìn xưa
Vướng nhau vì một đường tơ diệu vời
***
Những đêm tàn rượu chơi vơi
Trong ta chợt hiện bóng người hiên ngang
Mắt Từ - kiếm ảnh chưa tan
Khiến thân co lạnh trong làn khí thiêng
Nghĩ mình muôn trận cung tên
Việc quân trá thuật là quyền xưa nay (900)
Ngại gì máu nhuộm hồng tay
Thây oan chừng đã chất đầy đồng hoang
Tử sanh - là luật sa tràng
Giáo gươm là tín, trá gian là tài
Chiến tranh – chẳng khác canh bài
Mua vui trong cuộc trần ai nhọc nhằn
Chỉ vì chút lợi chút danh
Được thua đắp đỗi – tan tành tiếp nhau
Đã thành cái lệ biển dâu
Yếu thua, mạnh được – cao sâu đặt bày (910)
Trừ khi Thánh Chúa vần xoay
Yêu thương sự sống ngừng tay hận thù
Lòng không biển thẳm non mù
Hợp hoà cuộc thế thiên thu cậy nhờ
Còn như trí thuật nghìn xưa
Bày ra thêm những vực bờ tâm gian
***
Núi sông trải mãi xương tàn
Đổi thành mấy đấu lương quan triều đình
Cúi đầu lấy nhục làm vinh
Mắt mờ tai điếc, dân tình mặc ai (920)
Vật vờ áo mão cân đai
Vào trong khúm núm, ra ngoài vây vo
Tiếc cho thân cũng trong lò
Tỉnh thôi tóc đã màu tro ngả chiều
Hồn oan nào biết bao nhiêu
Lẫn hơi gió lạnh ít nhiều oán pha
Mắt Từ như lưỡi gươm loà
Đêm đêm vào mộng nhìn ta lạnh lùng
Trải qua muôn trận thư hùng
Khơi sông máu hận đổi chung rượu đầy (930)
Đã từng xé xác phanh thây
Xem như phạt cỏ chém cây là thường
Kể chi thiện ác thói thường
Chiến tranh là đến yêu thương nhiệm mầu
Mặc cho lũ quỷ không đầu
Dắt nhau lủi thủi qua cầu tử sinh
Từ hôm cái chết oanh linh
Trong tâm ám ảnh, bên tình không yên
Khiến ta u uất não phiền
Đêm đêm thao thức ngó viền trăng phai (940)
Bao giờ hoà hợp muôn loài
Bên trong thịnh đức, bên ngoài điều phương
Làm sao mở hết biên cương
Trần gian dựng một thiên đường chung vui
Cho hoa tươi góp ngàn tươi
Cho ta dâng nốt cuộc đời góp công
***
Qua đây nhớ tiếng tơ đồng
Ngày tàn binh lửa núi sông nhuộm cờ
Tay Kiều lướt mấy dòng tơ
Năm cung còn đến bây giờ vọng vang (950)
Sông Thương nào sóng mang mang
Tấm lòng nghĩa nước tình chàng chia đôi
An Tiêm nào nỗi bồi hồi
Hồn quê theo cánh diều trôi mây về
Bốn dây như điếng như tê
Nỉ non oán đọng, não nề sầu câm
Bây giờ vẫn thoảng dư âm
Tiếng đàn thanh lặng khóc thầm bấy nay
Tơ xưa rụng ở đất này
Ngọc xưa trầm dưới sông vầy lênh đênh (960)
Đoạn trường sóng dọi trăng thanh
Tưởng xiêm y đó còn xanh đến giờ
Bãi chiều hoa trắng đong đưa
Ngỡ tay người cũ phím tơ lạnh lùng
Giờ nhìn kỹ nữ so cung
Hồ ngồi tựa gối nhắp chung trà buồn
Sân mưa sùi sụt dòng tuôn
Dương như lệ tủi kiếp hường long đong
Cùng tân khách ngỏ hận lòng
Hồ tơ nay chạnh tiếng đồng tiệc quân (970)
Ngày xưa, của một giai nhân
Giết chồng, cứu nước muôn phần vẻ vang
Rồi thân giao xuống Tiền Đàng
Trăm năm vẹn nghĩa đá vàng sâu xa
***
Bấy giờ có một văn gia
Thưa rằng chuyện ấy tôi đà rõ hay
Giở trang tài mệnh xưa nay
Cùng hoen nước mắt, càng dày túc duyên
Dòng đời khi xuống khi lên
Cũng là thử thách cánh thuyền thiên hương (980)
Kể từ đất cũ họ Vương
Kiều, Vân phận gái riêng vườn ẩn hoa
Vương Quan, trai nối dòng nhà
Soi trăng đọc sách đậm đà kinh luân
Thuý Kiều vì hiếu quên thân
Duyên trời vừa hé nụ xuân vội tàn
Tưởng cùng Kim dệt phím loan
Trăm năm hoà một bản đàn rồng mây
Ai ngờ một sớm chia tay
Mảnh trăng, đất nọ đất này nhớ nhau (990)
***
Kẻ đi buồn trắng ngàn lau
Người về tay nhặt hoa cau lệ tràn
Vận nhà gặp chuyện trái oan
Vàng ba trăm lạng lễ quan mới thành
Chuộc cha, nàng phải bán thân
Dầu sôi lửa bỏng dám lần lữa đâu
Cậy em trả mối tình đầu
Hạt mưa liều phận, chôn câu nguyệt thề
Rơi vào tay họ Mã kia
Dầm sương dãi gió một xe bụi hồng (1000)
Cánh bèo ngơ ngác trên sông
Lầm nơi buôn hạnh, bán hồng mà trao
Phận Kiều chưa ngọt tay dao
Then sương đóng chặt hoa vào lầu xanh
Lại lầm thêm mẹo Sở Khanh
Miệng kêu chẳng thấu thôi đành phận câm
Đứt lòng nức tiếng ca ngâm
Rượu cười cợt khách lệ tầm tã riêng
Nàng cùng chàng Thúc vầy duyên
Tưởng qua dầu dãi lại thêm đoạ đày (1010)
Chước ghen vợ Thúc mới hay
Khiến mày mặt tủi – ngó mày mặt đau
Trái oan đành phận tôi hầu
Cá nằm đáy lưới lo rầu sớm hôm
Vượt tường ẩn chốn Thiền môn
Nhưng e thêm trận sóng cồn phong ba
Lần thêm Bạc Hạnh, Bạc Bà
Tưởng đâu mái ấm lại là lầu xanh
Thôi thì sen lấm bùn tanh
Gió mưa thêm nữa vầy cành thu mưa (1020)
Não nùng nguyệt đón sương đưa
Tình riêng còn ánh sao thưa cuối trời
***
Một hôm đất Việt có người
Nghênh ngang đàn kiếm tìm nơi chuộc nàng
Nửa năm duyên bén đá vàng
Họ Từ nổi máu hồ giang quen ngày
Đưa chồng ngựa nhạt yên mây
Phòng thu khép kín đêm ngày mênh mông
Người đi mù mịt non sông
Cho hoa quỳ võ một bông hướng chờ (1030)
Ngó sao, sao cũng hoen mờ
Hỏi trăng, trăng cũng lặng lờ tuyết băng
Nhện buồn thì giở tơ giăng
Người buồn khâu áo, biết rằng gửi ai
Gió phai màu lá hiên ngoài
Lệ phai sắc gối đêm dài bóng câm
***
Một hôm binh giáp ầm ầm
Từ về tráng khí hùng tâm chói loà
Trai hào kiệt, gái anh hoa
Một lời đã hẹn dẫu là trăm năm (1040)
Bao phen ngậm lệ kêu thầm
Nhục phơi mặt tái, sầu bầm dạ tuơng
Kiều đem - ân oán tỏ tường
Trả vay cho rõ lẽ thường quả nhân
Những phường buôn liễu vùi xuân
Đầu bêu cửa chợ xa gần hãi kinh
***
Thế rồi binh mã triều đình
Cọp beo là dũng, ngạc kình là oai
Tướng trời nổi trận gió bay
Rạng ơn thánh thượng, một ngày giặc tan (1050)
Thưởng công nàng với thổ quan
Lênh đênh chèo quế, sóng lam dặt dìu
Lòng ai tan tác muôn chiều
Tiền Đường nước bạc gieo liều phù dung
Chìm vào con nước - năm cung
Cho đàn hoá sóng não nùng lòng ai
Tiền căn chưa dứt thiên tài
Cành vàng lại vướng mẻ chài thiện duyên
Từ đây khoác áo hương thiền
Nước dương tẩy oán tan phiền từ đây (1060)
Mệnh đàn tưởng cuốn tơ dây
Cửa Không chôn chặt những ngày xa xưa
***
Cuộc đời lắm nỗi tình cờ
Khi trông không lại, chẳng chờ thì qua
Từ Kim quẩy sách về nhà
Chịu tang đất cũ, nhớ hoa đất người
Nửa năm của lệch gió cười
Hong đèn – sợ bóng, trông vời – tiếc trăng
Đoạn tang vội vã vân đằng
Lòng thu dặm bụi, ngựa băng nội dài (1070)
Liễu xa những tưởng sầu ai
Áo bay ráng đỏ, tóc gài mây xanh
Đàn còn đợi ngẩn ngơ thanh
Hiên văn sẽ lại nguyên vành trăng hương
Một chiều giậu cũ dừng cương
Bưởi phơi nụ lệ bên đường lất lây
Hỏi nhà Vương - đã rời đây
Hỏi nàng, đã đáp xe mây vân trình
Hỏi tình, tình đã quên tình
Vườn đào xanh cũ tưởng hình trâm rơi (1080)
Tường xưa, mòn lệ trông vời
Hoa xưa dột não lời thề hoa
Buồng trầm xưa vẳng âm ba
Còn rau sam, ấy nắng tà, vàng trơ
Tỉ tê dế gọi trăng mờ
Mấy tàu lá chuối xạc xờ gió lay
Chàng Kim dõi đó tìm đây
Sào phơi còn giải lụa dày dạn mưa
Quẩn quanh nhặt chút hương thừa
Chiếc hồn ma dại vật vờ thềm hoang (1090)
Hỏi người tìm đến cuối làng
Nhà Vương ẩn mái tranh tàn cột xiêu
Hàn huyên nhắc lại chuyện Kiều
Chứa chan khoé lệ, tiêu điều mày chau
Tưởng nàng xa biệt ngàn dâu
Bâng khuâng tóc biếc, giãi dầu mặt hương
Tưởng hoa ngậm lệ canh trường
Hồn theo cánh đóm tha phương lập loè
Chừng đâu trong mảnh trăng kia
Cùng soi hai mặt, cùng nghe lạnh lùng (1100)
Trăng chung mà gối chẳng chung
Lệ rơi lấp lánh một vùng ánh trăng
Ước gì hoá được mây giăng
Tìm nhau khắp chốn dẫu rằng tàn hơi
Ước chi hoá hạt sương ngời
Thiết tha đậu xuống tóc nguời miên man
***
Cứ theo ước nguyện của nàng
Thuý Vân sẽ kết cùng chàng mối duyên
Vương, Kim khuya sớm bút nghiên
Bảng treo nhành quế tên điền rõ hai (1110)
Bõ công kinh sách miệt mài
Việc quan gánh vác, trong ngoài hiển vinh
Lòng càng khơi ngọn lửa tình
Trơ vơ trăng dõi, lung linh đèn sầu
***
Chàng Kim dong ngựa tìm châu
Bâng khuâng nắng giãi, âu sầu suơng in
Vẫn là mù mịt bóng chim
Nhạn bay núi Bắc đi tìm biển Đông
Kể gì đèn phố khói sông
Mắt soi tám hướng, lòng mong mười chiều (1120)
Cỏ hoa cũng tưởng Thuý Kiều
Bâng khuâng suối bổng, đăm chiêu núi trầm
Trời xanh thương kẻ có tâm
Trong nơi tuyết giá hé mầm tin xuân
Bao năm xuôi ngược đường trần
Lang thang vó ngựa một thân võ vàng
Được tin nàng – đã mất nàng
Mạch sầu cắt nhỏ đôi hàng lệ xanh
Kim nghe mới thấu ngọn ngành
Kiếp hoa từ thuở lìa cành đớn đau (1130)
Hết đày đoạ chốn thanh lâu
Lại sa vào phận tôi hầu trớ trêu
Kiếp người chừng được bấy nhiêu
Mà bao hàng lệ tiêu điều thấm hoen
Trách trời nỡ nặng lòng ghen
Hết vùi tài trí, lại lèn giai nhân
Cõi hồng đã rạc dấu chân
Lòng mong dầu chỉ một lần thoáng qua
Dẫu tình dang dở đôi ta
Một lần thấy mặt âu là trăm năm (1140)
Sông dài vừa gặp cá tăm
Thì người xưa đã yên nằm đáy sông
Ối thôi! Vỡ ngọc tàn hồng
Thương nhau xin cảm nỗi lòng cho nhau
Đàn tràng lập bến sông sâu
Lệ tình rửa ngọc tươi màu băng nguyên
Trả nhau vẹn nửa trăng nguyền
Nước dương xin giải ưu phiền hờn oan
Lênh đênh mặt sóng hoa tang
Bó hoa nổi giữa mây vàng lô xô (1150)
***
Bỗng dưng hiện đến sư cô
Nón gồi lá thẫm, dép bồ cỏ thơm
Áo Đà vạt đậm hoàng hôn
Quẩy kinh đầu gậy rẽ cồn lau vương
Ảnh Kiều, vừa nhác bàn hương
Mắt trầm tươi nét, dáng sương ngại ngần
Nhà sư bỏ nón dừng chân
Hai bên thi lễ thưa gần thưa xa
Cửa Thiền còn ẩn tố nga
Vừa nghe những tưởng đâu là chiêm bao (1160)
Chàng Kim mắt lệ tuôn trào
Kẻ sau người trước xôn xao lạy mừng
Kéo nhau lên đỉnh cồn rừng
Cây xao nhã điệu, chim bừng nhã thanh
***
Hương chiều ngan ngát am tranh
Ngoài sân man mác mấy nhành lan rơi
Dưới hoa thấp thoáng bóng người
Quét hoa tay cũng lả ngời chùm hoa
Nhìn nhau suối lệ tuôn oà
Nỗi riêng tủi thẹn, nỗi nhà đoàn viên (1170)
Phận bèo trôi dạt sông thiêng
Ngờ đâu hai mảnh trăng nguyền chưa phai
Một nhà sum họp trúc mai
Thêm chim tấu nhạc, thêm đài bông dâng
Bõ rài rạc ngựa bâng khuâng
Bõ hiu hắt gió theo vầng mây xanh
Cõi lòng cũng rộn yến oanh
Viền trăng duới lại gặp vành trăng trên
Dòng hương quyện sóng đàn lên
Đổi tình cầm sắt thành duyên cầm kỳ (1180)
Người kiệt nữ ấy là chi
Đương Kim quan huyện, chính vì phu nhân
***
Hồ nghe vẻ mặt tần ngần
Bờ sương ngạn liễu giang tân nhạt nhoà
Tiểu đình trầm mặc hiên hoa
Trà sen đọng nguyệt, tỳ bà dừng loan
Sượng sùng khoé mắt thượng quan
Nửa chi cay đắng, nửa san ngậm ngùi
Sáng nay, Hồ mới sai người
Đem cây đàn quý ban nơi huyện đường (1190)
Thiên tình lại dệt đôi chương
Thưởng công trị loạn, tuyên dương hiền tài
Kim về tựa án thở dài
Nến trong lệ đọng, mưa ngoài hiên thưa
Tặng đàn hẳn nhắc tiếng xưa
Trị dân – thầm nhủ như vừa so dây
Ra vào, tư lự riêng tây
Nghĩ mai thiết yến, đặt bày lo toan
Ngoài hiên có tiếng a hoàn
Dâng thơ đã nhác tên nàng đề phong (1200)
Nến rơi lã chã giọt hồng
Xem qua nhẹ nỗi bận lòng tối nay
Chữ Kiều, lãng đãng hương bay
Lủa pha sắc giấy ửng mây chiều mờ
Đàn này, thiếp đã so tơ
Quả là báu vật, bây giờ, tạ ơn
Ấm thì mạch suối nào hơn
Ngân thì tiếng hạc như vờn cồn trăng
Trục đàn sáng ngọc tươi băng
Xuân phơi khói núi, Thu giăng tơ trời (1210)
Cảm riêng khó tả nên lời
Xin cho tiện thiếp dự nơi tao đàn
***
Trước là đáp lễ thượng quan
Sau cùng bằng hữu dâng làn cung tơ
Tri âm tạ mối duyên thơ
Chút lân tài đã đợi chờ mấy Đông
Thiếp xin ghi tạc ơn lòng
Đêm nay thảo vội đôi dòng bút trao
***
Đồi xa nai vọng tiếng gào
Ngoài hiên nhoà nhạt cội đào đơm sương (1220)
Bóng ai quạnh quẽ trên tường
Gió Đông lùa mấy dòng hương nhạt màu