3.050. Sau cầu pháp độ trần ai mê lầm.
Đỉnh ngọc đốt giải thoát trầm,
Giữa nền thủy tạ trên đầm mênh mông.
Phật nhập định phóng thần thông,
Mười phương vũ trụ hiện trong lòng từ.
Mây vàng tỏa khắp thái hư,
Dệt nên bài kệ chân như nhiệm mầu.
Khiến chúng sinh khắp năm châu
Trông mây lòng sạch tham cầu ai bi.
Pháp hiền trong suốt lưu ly,
Đưa về tánh Phật tư nghì được sao.
Ý thần vỗ cánh chim cao,
Gọi nhau tỉnh giấc mê đào trần sa.
Sáng sau vua Chuân-đà-la,
Trong vườn thượng uyển dựng tòa đàn hương.
Sửa tiệc thanh tịnh cúng dường,
Thỉnh Phật dừng nghỉ bước đường vân du.
Lại truyền ân xá giảm tù,
Phóng sinh, bố thí… đền bù đức cao.
Phật ngồi chiếu ánh bạch hào
Khiến người tỉnh giấc chiêm bao, thấp hèn.
Khói trầm kết thành hoa sen,
Đài phô hương nhụy, cánh chen sắc màu.
Hóa thân Phật tựa vàng châu,
Ngự đài hoa diễn pháp mầu thần oai.
Theo mây đi khắp trần ai,
Khắp trong thế giới muôn loài ngẩn ngơ.
Sạch lòng bọt nổi huyền mơ,
Cánh hồng tung gió qua bờ thiên tiên.
Gió vi diệu bạt ưu phiền,
Hoa vi diệu thoảng hương thiền từ bi.
Hôm sau võng lọng tinh kỳ,
Vua Ưu-điền thỉnh Phật về thiết trai.
Bên sông tùng liễu vươn dài,
Kết bè gỗ quý dựng đài tôn nghiêm.
Đèn treo hoa trải hai bên,
Xuôi dòng man mác buông thuyền nhã ca.
Đón Phật xuống ngự bè hoa,
Như viền băng nguyệt trên tòa bảo vân.
Vua cùng hoàng hậu phi tần
Ngồi quanh thính pháp muôn phần kính tôn.
Phật dùng ảo diệu thần thông
Biến hoa kia hóa xe rồng lên mây.
Toàn dùng bảy báu trưng bày,
Trên xe chở một kiệu đầy thi kinh.
Mỗi pho là một đẩu tinh,
Hào quang chư Phật hiện hình bến mê.
Theo đường mây nổi bay về
Đại phương thế giới mười bề sao sa.
Cúng dường muôn cõi Phật-đà,
3.100. Cầu thần oai chuyển ta-bà nghiệp chung.
Lại đem diệu pháp thần thông,
Khiến người tỉnh giấc trần hồng mê say.
Như chim vượt lưới trùng vây,
Như đêm viên nguyệt, như ngày thái dương.
Trí Phật như đấng dược vương,
Tùy căn bệnh khổ vô thường chúng sinh.
Thuốc thần chữa gốc vô minh,
Tỉnh ra ngã, pháp một hình bọt sôi.
Vọng tâm biến diệt nào thôi,
Mười hai xiềng khổ luân hồi mãi xoay.
Nền trời lấm tấm hoa bay,
Trên sông man mác vơi đầy dòng ca.
Sáng ngày sau, vua Bình-xa
Cùng hàng văn võ kéo ra thỉnh mời.
Khi đoàn rước Phật đến nơi,
Hoàng cung như thể cõi trời gấm nhung.
Lại thêm tòa giảng Đại hùng,
Nhân dân khắp chốn quanh vùng về nghe.
Bỗng dưng những áng mây che
Kết thành bàn ghế trên hè tỏa quang.
Mâm son, bát ngọc, đũa vàng,
Tiệc trai chuyển tự thiên đàng xuống mau.
Sương năm sắc hiện dải cầu
Từ thinh không bắc xuống lầu niệm hoa.
Lại nghe réo rắt đàn ca,
Với bao tàn lọng gần xa trập trùng.
Cõi phàm chợt hóa thiên cung,
Đèn treo, hoa kết quanh vùng hội xuân.
Chư tiên đãi tiệc hồng trần,
Thiện duyên khiến thấy một lần thiên thai.
Dự xong, đương lúc người vui,
Cảnh kia lại hóa mây trời bay đi.
Trên tòa hồng ngọc lưu ly,
Trầm thơm quyện tấm hoàng y ngạt ngào.
Phật chỉ tay, dưới đài cao
Hiện ra cõi ngục lúc nào chẳng hay.
Tội nhân muôn kiếp đọa đày,
Hết nung cột lửa, lại bày vạc sôi.
Hết cưa chân, lại nén người,
Hết nằm thú rỉa, lại ngồi bàn chông.
Trói vào một khối tiền đồng,
Nghìn trăm cân nặng lưng còng bê đi.
Khổ vì keo kiệt cuồng si,
Nên giờ tiền bạc buộc ghì đôi tay.
Lại thêm già trẻ gái trai,
Trói vào neo sắt co người khiêng theo.
Phật rằng tội phước cheo leo,
Gieo nhân hái quả là điều buộc thân.
Hoặc là tàn ác sát nhân,
3.150. Hoặc là bán nước buôn dân tội dày.
Hoặc là hại kẻ thơ ngây,
Hoặc là dâm đãng xúi bầy nát tan.
Hoặc là trộm cắp điêu gian,
Hoặc là lừa gạt muôn vàn đảo điên.
Khiến người nhục nhã oan khiên,
Khiến người thêm oán thêm phiền chấp nê.
Gây bao nhân khổ duyên mê,
Là bao tội trạng nặng nề chất lên.
Nghiệp thân, khẩu, ý vô biên,
Đắp thành ba ngục ưu phiền mông mênh.
Xem nghe ai chẳng rùng mình,
Suốt muôn ngàn cách cực hình khảo tra.
Ngẫm ngay giữa cõi người ta,
Lưỡi gian có khác chi là hầm chông.
Thân kia chẳng khác ngục đồng,
Ý kia chẳng khác lửa hồng bốc reo.
Vui buồn nào khác khiêng neo,
Biết mình giữa chốn hiểm nghèo, mấy ai!
Lạ thay, miệng đức Như Lai
Mở lời, địa ngục hóa đài hào quang.
Rằng “ba biển nghiệp mênh mang
Mà chiêu cảm đến hai đàng khác nhau.
Ác tâm đọa lạc ngục sâu,
Thiện tâm lên cõi nhiệm mầu nhân tiên.
Trùng trùng thập nhị nhân duyên,
Do ái, thủ, hữu hiện tiền bày ra.
Sáu đường trôi nổi phù sa,
Vô minh khởi hiện bạo hà tham sân.
Các người mau thoát mê tân,
Như trăng sáng giữa ảo vân ngợp trời.
Dù cho sóng động trùng khơi,
Con thuyền Lục độ đưa người tang thương.”
Nghe xong khắp cả đạo trường
Phát tâm bố thí tìm đường nhân thiên.
Lời hiền âm thoảng suối thiêng,
Chợt nghe ngạ quỉ cũng liền hóa sinh.
Vua Bình-xa đứng nghiêng mình
Chắp tay lễ Phật chân tình ngỏ thưa:
“Bao người mong ước từ xưa,
Xem các tướng tốt mà chưa toại lòng.
Vì bánh xe pháp đôi vòng,
Dưới bàn chân nọ chưa từng được hay.
Dám xin Ngài, tiện hôm nay,
Rộng thương đại chúng phô bày tướng kia.”
Theo lời thỉnh của nhà vua,
Phật đưa chân nọ qua bờ đài hương.
Khiến ai ai cũng hay tường,
Sắc tươi ngọc tỏ, màu hường ráng pha.
Hiện lên rờ rỡ luân xa,
3.200. Rõ ràng vòng bánh nan hoa diệu vời.
Khiến cho hoan hỉ lòng người,
Vua Bình-xa mới tiếp lời trình thưa:
“Nhân gì theo thuở xa xưa,
Nên chi phúc báo, thân giờ đẹp thay?”
Phật rằng “tiền kiếp ta đây
Giữ mười điều thiện khiến người tu theo.
Nên nay tốt đẹp trăm chiều,
Một đời phước tuệ cao siêu ai bì.”
Vua thưa “diệu pháp tu trì,
Cách đem hóa độ tham si thế nào?
Khiến đời muôn vạn trần lao,
Sáng tươi dưới ánh Phật hào mênh mông.
Xin Ngài độ kẻ qua sông,
Xin Ngài cho kẻ có lòng được hay.”
Phật rằng “vạn kiếp cách đây,
Có nhà vua hóa cõi này trang nghiêm.
Oai danh đồn đãi muôn miền,
Chăn dân, trị nước, chúa hiền gắng công.
Buồn riêng, chưa kẻ nối dòng,
Dẫu nơi cung cấm đào hồng thiếu chi.
Một hôm săn thú rừng kia,
Hai bên voi ngựa, bốn bề cung thương.
Gặp đàn thỏ dưới cội sương,
Mẹ dắt con nhỏ tìm đường ẩn thân.
Trông như cụm tuyết trắng ngần,
Một bầy ngơ ngác muôn phần sợ thay.
Thỏ con tha thẩn dưới cây,
Biết đâu nguy khốn kề ngay bên mình.
Thỏ mẹ nấp đứng quẩn quanh
Ngó con, đau xót chẳng đành bỏ đi.
Vua truyền bãi cuộc, lui về,
Thỏ còn tình nặng huống chi loài người.
Mà ta lấy máu làm vui,
Càng suy nghĩ lại càng bùi ngùi thương.
Long xa về đến triều đường,
Lòng vua còn mối vấn vương bời bời.
Nửa đêm chợt hiện một người,
Xưng là thần núi mắt ngời lưu ly.
Dáng cao lẫm liệt phương phi,
Nói rằng “tôi đã cảm vì lòng vua.
Rộng ban hành đức móc mưa,
Khiến muôn vật cũng được nhờ sinh sôi.
Chí ngài cảm đến lòng trời,
Sẽ sinh ấu chúa xứng ngôi rỡ ràng.”
Báo rồi vụt tỏa hào quang,
Nhà vua mới biết mộng vàng vừa đây.
Cứ như điềm báo trước này,
Hẳn có trai quý một ngày không xa.
Sáng mai chiếu chỉ ban ra
Cấm ngăn cờ bạc cùng là sát sinh.
Lại truyền bỏ hết cực hình,
Chẳng còn tổn hại sinh linh mọi bề.
Nguyện đem công đức hướng về,
Đổi thay cộng nghiệp tham mê hồng trần.
Chẳng bao lâu khắp thần dân,
Nghe hoàng hậu có tin xuân đầu mùa.
Phòng hương cầu nguyện thêu thùa,
Nụ hoa thoắt đã đến giờ mãn khai.
Tin truyền khắp cõi trong ngoài,
Thái tử là một cậu trai khác đời.
Thân như ngọc sáng mầm tươi,
Khôi ngô tuấn tú ra người trượng phu.
Chư hầu bao vị chúa vua
Chúc mừng vương quốc dựng mùa hội hoa.
Niềm vui tràn khắp muôn nhà,
Đón chào minh chúa vừa ra trị đời.
Vua cho sứ đến một người
Hiền nhân ẩn sĩ để mời vào cung.
Người khen: “tướng đẹp vô cùng,
Sẽ ghi tiếng đại anh hùng sử xanh.”
Vua rằng “đã có điềm lành,
Mang thai, hoàng hậu thông minh khác thường.
Tự nhiên kinh sách tỏ tường,
Lại hay làm phúc ban ơn mọi bề.”
Tâu thêm: “vóc thể phương phi,
Chân lông tỏa sáng ánh kỳ diệu thay!
Và theo điềm lúc mang thai,
Xin đặt thái tử tên này: Bửu Quang.”
Nói rồi từ tạ thánh hoàng,
Khoan thai trở gót về làng ẩn cư.
Lần lần sương sớm mây trưa,
Tàn xuân hoa nọ đã vừa trái xanh.
Trẻ hiền sớm phát tinh anh,
Trăm pho huyền nghĩa học hành thông mau.
Tiếng như nước suối qua cầu,
Môi như hồng nụ phô màu chớm xuân.
Mắt chàng như giếng thu ngần,
Tay như bút ngọc muôn phần đẹp tươi.
Hòa nhan ái ngữ nết người,
Lại bi trí dũng tính trời vốn mang.
Xuân vừa tới tuổi Bửu Quang,
Thì đau đớn nỗi phụ hoàng quy tiên!
Triều thần theo luật đương nhiên
Tấn phong thái tử ngự lên ngai vàng.
Tân vương sau lễ đăng quang,
Ban hành chiếu chỉ sửa sang mọi ngành.
Bỏ tà, giữ chánh phân minh,
Lại theo thập thiện điều hành quốc dân.
Dẫu là mệt trí, nhọc thân,


Phạm Thiên Thư thi hoá tư tưởng Dàmamùka Nidàna Sùtra (Kinh Hiền Ngu), Trần thị Tuệ Mai nhuận sắc.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]