Chưa có đánh giá nào
Thể thơ: Lục bát
Thời kỳ: Hiện đại

Đăng bởi Vodanhthi vào 13/03/2010 17:48, đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Vodanhthi vào 14/03/2010 19:54

Nhớ xưa khi đấng Pháp vương
Ở Kỳ-xà-quật núi sương ngút trời.
Gặp phen thời tiết đổi dời,
Phật vừa thọ bịnh, cho mời vị lang.
Thầy ngụ trong Cúc Mai trang,
Bên dòng sông nhỏ buông hàng liễu dương.
Vợ chồng nổi tiếng y vương,
Cứu người tật bệnh tai ương khắp miền.
Thầy hòa bát thuốc gia truyền,
Ba mươi hai lượng dâng lên trước mùng.
Thưa rằng “nội lực vô cùng,
Nên con hòa quá lượng dùng cho mau.”
Thế tôn chú nguyện đôi câu,
Chúc cho thầy chứng đạo mầu tự tâm.
Vị lương y rời thiền lâm,
Tay nương gậy trúc qua vườn mai hoa.
Ngựa ông vừa ruổi tới nhà,
Thấy người của phái Bạt-đa chờ mời.
Lại đi coi mạch cho người,
3.850.  Qua vùng miếu cũ đến nơi Đề-bà.
Thấy cùng chứng bệnh Phật-đà,
Thầy cân bốn lượng thuốc hòa đem dâng.
Thưa “nơi khói núi mù sương,
Hay sinh lắm bệnh khác thường xưa nay.
Cách chừng đôi buổi trước đây,
Thế tôn cũng mắc bệnh này như ông.
Ba mươi hai lượng thuốc dùng,
Hôm sau bình phục như thường có sao.”
Đề-bà Bạt-đa tự hào
(So hai sức khoẻ ta nào kém chi.
Mà cân lượng thuốc ít đi,
Hay là lão dụng mưu gì bất lương!)
Chờ thầy quất ngựa lên đường,
Cứ theo số lượng Phật dùng truyền pha.
Uống xong liền ngã lăn ra,
Miệng sùi bọt trắng, một nhà xôn xao.
Phật ngồi trên đỉnh non cao,
Quán từ bi biến thân vào mênh mang.
Biết Đề-bà sắp nguy nàn,
Thần thông hiện cánh tay sang xoa đầu.
Bỗng nhiên mây nổi muôn màu,
Hiện năm ngón Phật như cầu kim cương.
Đề-bà nằm thiếp trên giường,
Tự dưng ngồi dậy như thường, chẳng sao.
Vây quanh tử đệ xôn xao
Rằng “Phật vừa phóng bạch hào chở che.”
Đề-bà nghe nổi si mê,
Vu “Phật khiến bỏ độc kia thuốc người.
Nhưng sao qua khỏi mắt trời,
Nên thiên sứ xuống phù đời chính chân.”
Lừa người hòng tạo lòng sân,
Gây thù tạo hận muôn phần hiểm nham.
Tin đưa đến ngài A-nan,
Nhân khi hầu Phật dưới hàng thông reo.
Mới đem thuật rõ mọi điều,
Phật cười: “ân oán đã nhiều xưa nay.”
Ngừng lời, nghiêng xuống bàn tay,
Hứng con bướm trắng vờn bay, đậu vào.
Rung rung như cánh hoa đào,
Giữa lòng tay Phật hồng hào luyến thương.
Ngài tiếp: “trong cõi vô thường,
Từ bi hỉ xả là đường chính chân.
Quyết lòng vượt thoát ngã, nhân,
Chấp chi vọng tưởng phù trần đảo điên.
Cũng từ kiếp trước nhân duyên,
Hại ta đâu phải một lần này thôi.
Nhớ xua trong kiếp luân hồi,
Châu Diêm-phù có một đời vua kia.
Hung tàn hiếu sát kể chi,
3.900.  Gian tham tích nghiệp, sân si ám lòng.
Bệnh trầm kha đã mấy đông,
Một đêm mơ thấy thú lông màu vàng.
Chung quanh tỏa chiếu hào quang,
Chữa cho vua khỏi nguy nan ngặt nghèo.
Tỉnh ra, bệnh cũng khỏi theo,
Nhớ lông thú lạ, trăm chiều ước ao.
Mấy ngày sau giữa đại trào,
Họp phường săn bắn cho vào dưới sân.
Truyền “về sắm sửa cung tên,
Săn cho con thú như trên tả bày.
Hẹn già trong một tháng trời,
Nếu không săn được, ba đời tru di.”
Trở về một bọn sầu bi,
Chỉ còn tháng nữa đến kỳ đầu rơi.
Thú đâu có thú lạ đời,
Người đâu lại có lòng người oái oăm.
Một đêm họp hết phường săn,
Tìm mưu tính kế cho bằng thoát thôi.
Bỗng nhiên xuất hiện một người,
Thưa rằng “các bạn tìm nơi ẩn mình.
Mang theo của cải gia đình,
Việc này xin để mặc tình tôi lo.”
Nói rồi chào biệt mọi nhà,
Đeo cung tên, gã bỏ ra ngoài rừng.
Kể chi ác thú độc trùng,
Vượt đèo băng suối vô cùng gian nan.
Tìm cho được thú lông vàng
Giống như trong giấc mơ màng nhà vua.
Tấm thân dãi nắng dầm mưa,
Tử sinh kẻ tóc đường tơ mấy lần.
Một hôm gã nọ dừng chân
Giữa vùng sa mạc châu thân rã rời.
Phần thì nắng bỏng da người,
Phần thêm đói khát khôn dời bước đi.
Than rằng “ta chẳng tiếc chi,
Chỉ phiền chết chẳng cứu gì được ai.
Uổng bao ngày tháng dạc dài,
Tấm lòng đem xuống tuyền đài sao tan.”
Thiếp vào lòng cát mê man,
Bâng khuâng hồn điệp mênh mang đất trời.
Vẳng đâu tiếng suối xa vời,
Dần nghe sức đã phục hồi như xưa.
Tỉnh trông một tín mười ngờ,
Biết đâu âm cõi huyễn mơ nào chừng.
Giữa hang nở trắng lan rừng,
Có hồ nước biếc mấy từng mây in.
Cửa ngoài tím ngắt hoa sim,
Vào ra ríu rít bầy chim tiểu hoàng.
Còn bâng khuâng nỗi lòng chàng,
3.950.  Thì đâu con thú lông vàng hiện ra.
Rằng “tôi tên gọi Cử-đà,
Ứng thân đi khắp ta-bà nơi nơi.
Cũng vì biển lệ chưa vơi,
Nên chi nguyện ở cõi đời khổ đau.
Trưa qua cảm được lòng nhau,
Cũng là cạn khổ vơi sầu chúng sinh.
Đón về đây để biến mình,
Xả thân chuyển nghiệp vô minh sâu dày.”
Nói rồi tự đứng phanh thây,
Lột da trao đến trước người thợ săn.
Rằng “vô lượng kiếp hồng trần,
Tử sinh như áo bao lần đổi thay.
Quẩn quanh tháng tháng ngày ngày,
Dệt thêm hư vọng cho đầy tham si.
Trước sau cũng một lần đi,
Cái thân huyễn hợp giúp gì được ai.
Bây giờ mừng được gặp ngài,
Nhờ đem lông đến thức người si mê.
Tôi nguyện công đức hướng về
Chúng sinh đắc đạo Bồ-đề Như Lai.”
Cử-đà vừa nguyện dứt lời,
Sáu lần chuyển đất nghiêng trời mê tân.
Mới hay Bồ-tát thí thân,
Cây tươi dâng trái hoa ngần dâng hương.
Chư thiên hiện xuống cúng dường,
Hóa thành mây báu mười phương chiếu ngời.
Thợ săn xiết đỗi rụng rời,
Tỉnh ra đã thấy bên người cỗ da.
Đâu còn mây ủ non hoa,
Nhìn lên hiện rõ mấy tòa thành cung.
Gối quì vái vọng hư không,
Chúng sinh nguyện độ một lòng không hai.
Gã vào trước điện dâng ngay.
Nhìn da con thú bao ngày thầm mong,
Nhà vua hả dạ vui lòng,
Truyền đem vàng ngọc thưởng công tiễu trừ.
Gã thợ săn quyết chối từ,
Chỉ xin vui thuận cho như nguyện lòng.
Một là vỡ núi khai sông,
Hai là tháo cũi sổ lồng ân tha.
Ba là gác chuyện can qua,
Bốn là mở đạo hiếu hòa hiếu sinh.
Dựng xây nước mạnh dân bình,
Gia ân là đức, giảm hình là uy.
Dưới thềm từ tạ ra đi
Bỏ vào núi ẩn, tu trì sớm trưa.
Đó là duyên cớ xa xưa,
Nhà vua thuở nọ bây giờ về đây.
Là Đề-bà tội sâu dày,
4.000.  Tu bao nhiêu kiếp còn đầy tham sân.
Nghiệp lực cứ mãi chuyển vần,
Sáu đường hư ngụy bao lần nổi trôi.
Một khi xả nghiệp xong rồi,
Niết-bàn cũng ở luân hồi đâu xa.
Ngộ mê cũng một lòng ta,
Vọng duyên hoa đốm vẫn là chân không.
Bè kia muốn vượt bến hồng,
Nương chèo bi, trí, giữ lòng chẳng hai.
Cử-đà kiếp trước tự tay
Lột da bố thí thức người tham mê.
Kiếp này chứng đạo Bồ-đề,
Mười phương thế giới đi về thênh thang."

Dạy xong Phật đắp y vàng,
Chim đâu cất cánh một hàng lên cao.
Chờn vờn đôi bướm bạch đào,
Đậu trên áo Phật khác nào hoa rơi.
Pháp thiêng khiến tỉnh lòng người,
Chừng như hòa vọng trong lời suối reo.
Dưới non có vị Tỳ-kheo
Du phương quảy gói ráng chiều trên vai.


Phạm Thiên Thư thi hoá tư tưởng Dàmamùka Nidàna Sùtra (Kinh Hiền Ngu), Trần thị Tuệ Mai nhuận sắc.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]