Trang trong tổng số 12 trang (116 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Tuấn Khỉ

Chân dung nhà thơ Việt Nam đương đại (Phần I)

http://dohoang.vnweblogs.com/gallery/3360/A%20b%20Do%20Hoang%201.jpg
Tác giả: Nhà thơ Đỗ Hoàng

Bài đăng trên blog Đỗ Hoàng 16/72012 10:06

Nhà văn, nhà thơ Nguyễn Hiếu đã bỏ công sức để đọc và thẩm định thơ ca đương đại. Đó là một việc vô cùng cực nhọc và gian khó. Phải có con mắt tinh đời nghe thấu bốn cõi cộng với lòng trung thực, cái tâm hết sức trong sáng mới làm nổi công việc này. Một công việc “Thẩm thơ” sánh với Hoài Thanh,  Hoài Chân viết Thi nhân Việt Nam bất hủ!

Tôi Đỗ Hoàng mạo muội chuyển vần cho dễ nhớ, dễ thuộc. Trong khi chuyển vần tôi có thể thêm bớt, lược bỏ để hợp với thi ca, kính mong đại nhân Nguyễn Hiếu và bạn đọc thứ lỗi!


1- Hữu Thỉnh chẳng còn bài nào,
Xe tăng húc phải tường rào thi ca!

2- Chế Lan Viên quá tài ba
Cách tân, truyền thống thật là tuyệt luân!

3- Phùng Cung chịu bao phong trần
Để thơ ca Việt đến gần Trời cao!

3- Cũng nên nhắc bác Nguyễn Bao
Cùng em Định Hải đã vào văn chương!

4- Phùng Quán tính cách khác thường
Lưu danh sử sách cũng đương luận bàn!

5- Lê Đạt là bậc siêu phàm
Bục An (1) đặt ngực phải mang suốt đời! (1) Công an

6- Hoàng Trung Thông chỉ mấy nhời,
Bên ta cũng thích, bên người cũng ưa!

7- Trần Dần chẳng phải tay vừa
Nô ben cầm chắc ngàn xưa ai tày!

8- Nguyễn Hữu Đang sánh trời mây,
Mặc cho hỗn thế đọa đày nhân gian!

9- Hoàng Cầm tình ái đa mang
Tài thơ số một trên toàn Đông Dương!

10- Lưu Trọng Lư không tầm thường
Tiếng Thu là đủ khơi nguồn nghìn thu.

11- Nhạt nhàn văn xuôi Đỗ Chu
Nhảy qua thơ phú làm ngu thi đàn!

12- Buồn cho anh Vũ Từ Trang
Buôn gỗ sung sướng lại quàng thêm thơ.

13- Bác Mai Phương quả mộng mơ
Ngợi ca chủ mỏ đem tơ đổi tiền!

12- Phạm Tiến Duật cổ động viên
Để bao máu lính dính liền chân mây!

13- Lê Thanh Nghị dân trai cày
Phê bình, thơ phú chẳng say lòng người!

14- Hoàng Nhuận Cầm đáng bôi vôi
Coi cuộc đánh đấm như chơi chắt chuyền!

15- Thơ cụ Thượng Nguyễn Khoa Điềm
Nên đưa tất cả búa liềm lại phang!

16- Hương thầm chị Phan Thanh Nhàn
Xóm đê nhìn lại chỉ toàn cỏ rau!

17- Trúc Thông đau chữ, đau câu
Bờ sông vẫn gió từ lâu nhạt nhèo!

18- Nguyễn Quang Thiều đã phăng teo
Sính làm Vô lối, cố đeo làm gì!

19- Mai Văn Phấn cũng bỏ đi
Sở Đoan, Thuế vụ thư thi ai màng!

20- Kỳ tài là Hồng Thanh Quang,
Hang hùm, nọc rắn vẫn vang thơ tình!

21- Nguyễn Trọng Tạo tỉnh tình tinh
Nhạc thì một phách, thơ đinh đóng hòm!

22- Nguyễn Đình Chính tục tỉu hơn,
Văn thơ xuống cấp, ổ rơm, ổ gà

23- Trần Trương đừng có kể ra,
Mà làm xấu hổ thơ ca nước mình!

24- In sa ra gã - Chăm tinh
Tiếng Việt nói ngọng còn bình thi thư!

Mấy dòng dịch dổm thiếu dư,
Dẫu cho sấm sét, hùm ngư cũng chiều!


Hà Nội ngày 16 – 7 - 2012

Đỗ Hoàng

Chân dung nhà thơ Việt Nam đương đại (Phần II)

http://dohoang.vnweblogs.com/gallery/3360/A%20b%20Do%20Hoang%201.jpg
Tác giả: Nhà thơ Đỗ Hoàng

Bài đăng trên blog Đỗ Hoàng 14/8/2012 11:21

26- Hoan hô nhà thơ Hải Như
Ngợi ca quan thượng hiền sư giữ chùa.

27- Viễn Phương hề, chẳng chịu thua,
Làm con chim hót lăng vua suốt đời!

28- Hữu Loan bầm dập phận người,
Hoa mua màu tím vẫn ngời sắc hoa!

29- Hà Đông áo lụa Nguyên Sa,
Xứng danh thi bá tài ba vài dòng.

30- Trần Đăng Khoa thật thần đồng,
Ăn vàng cộng sắn nên không thành ngài!

31- Trần Mạnh Hảo bậc kỳ tài,
Văn, thơ, luận chiến chẳng ai sánh bằng!

32- Nguyễn Duy một thời tiếng tăm,
Cũng nhờ rau má, nong tằm, ca dao!

33- Chim Trắng thuộc loại cựu trào,
Nhưng mà chẳng có câu nào nhớ ghi!

34- Tạ Vũ uống rượu li bì,
Đem men quét mãi còn gì là thơ!

35- Nguyễn Thụy Kha đau giả vờ,
Nhạc thơ mưng tấy đồ rờ xi rê!

36- Trần Nhuận Minh thấu tình quê,
Nỗi niềm câu chữ nhớ về cố hương!

37- Chân thành thi sỹ Trần Nhương,
Nhúng vào sự thật văn chương có hồn!

38- Nguyễn Chí Thiện nỗi như cồn,
Xứng danh Ngục Sỹ, thơ còn nghìn năm!

39- Cao Tần đồng loại đánh văng,
Thi tâm nguồn cội sánh bằng ông cha!

40- Nguyễn Bá Chung rời xứ ta,
Đêm ngày đau đáu quê nhà trong tim!

41- Vũ Quần Phương đốt đuốc tìm,
Bè thơ sóng gió đánh chìm từ lâu!

42- Thạch Quỳ Củ Nghệ tóc râu,
Nhưng mà cũng có mấy câu nhớ bền!

43- Xuân Hoàng đã bị lãng quên,
Bỏ quê không để cái tên cho làng!

44- Đa tài tử Lê Huy Quang,
Sân khấu, thơ, họa làm sang cho đời!

45- Lê Văn Ngăn quá dở hơi,
Quyết làm Vô Lối bịp đời mấy chiêu!

46- Bùi Giáng lục bát như kiều,
Mưa Nguồn tưới thắm những chiều đảo điên!

47- Đại Vô Lối Thanh Tâm Tuyền,
Hơi đâu mà nhắc cái tên ta bà!

48- Bằng Việt vượt giàn đồng ca
Bằng dòng thơ dịch tài ba ai tày!

49- Nữ thi sỹ Lê Thị Mây,
Chẳng còn một mảnh trăng gầy chờ mong!

50- Y Phương tắm nước sông Hồng,
Nương thơ bị lũ bướm đồng cắn hư!

Mấy lời dịch dỗm thiếu dư,
Dẫu cho sấm sét, hùm ngư cũng chiều!


Hà Nội, ngày 15 tháng 8 năm 2012

Đỗ Hoàng
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

.
Tuấn Khỉ đã viết:
Chân dung nhà thơ Việt Nam đương đại (Phần I)

http://dohoang.vnweblogs.com/gallery/3360/A%20b%20Do%20Hoang%201.jpg
Tác giả: Nhà thơ Đỗ Hoàng

Bài đăng trên blog Đỗ Hoàng 16/72012 10:06

Tôi Đỗ Hoàng mạo muội chuyển vần cho dễ nhớ, dễ thuộc. Trong khi chuyển vần tôi có thể thêm bớt, lược bỏ để hợp với thi ca, kính mong đại nhân Nguyễn Hiếu và bạn đọc thứ lỗi![/i]

1- Hữu Thỉnh chẳng còn bài nào,
Xe tăng húc phải tường rào thi ca!

6- Hoàng Trung Thông chỉ mấy nhời,
Bên ta cũng thích, bên người cũng ưa!

10- Lưu Trọng Lư không tầm thường
Tiếng Thu là đủ khơi nguồn nghìn thu.

11- Nhạt nhàn văn xuôi Đỗ Chu
Nhảy qua thơ phú làm ngu thi đàn!

12- Buồn cho anh Vũ Từ Trang
Buôn gỗ sung sướng lại quàng thêm thơ.

13- Bác Mai Phương quả mộng mơ
Ngợi ca chủ mỏ đem tơ đổi tiền!

12- Phạm Tiến Duật cổ động viên
Để bao máu lính dính liền chân mây!

13- Lê Thanh Nghị dân trai cày
Phê bình, thơ phú chẳng say lòng người!

14- Hoàng Nhuận Cầm đáng bôi vôi
Coi cuộc đánh đấm như chơi chắt chuyền!

15- Thơ cụ Thượng Nguyễn Khoa Điềm
Nên đưa tất cả búa liềm lại phang!

16- Hương thầm chị Phan Thanh Nhàn
Xóm đê nhìn lại chỉ toàn cỏ rau!

17- Trúc Thông đau chữ, đau câu
Bờ sông vẫn gió từ lâu nhạt nhèo!

18- Nguyễn Quang Thiều đã phăng teo
Sính làm Vô lối, cố đeo làm gì!

19- Mai Văn Phấn cũng bỏ đi
Sở Đoan, Thuế vụ thư thi ai màng!

20- Kỳ tài là Hồng Thanh Quang,
Hang hùm, nọc rắn vẫn vang thơ tình!

21- Nguyễn Trọng Tạo tỉnh tình tinh
Nhạc thì một phách, thơ đinh đóng hòm!

22- Nguyễn Đình Chính tục tỉu hơn,
Văn thơ xuống cấp, ổ rơm, ổ gà

23- Trần Trương đừng có kể ra,
Mà làm xấu hổ thơ ca nước mình!

24- In sa ra gã - Chăm tinh
Tiếng Việt nói ngọng còn bình thi thư!

Mấy dòng dịch dổm thiếu dư,
Dẫu cho sấm sét, hùm ngư cũng chiều!


Hà Nội ngày 16 – 7 - 2012

Đỗ Hoàng

Chân dung nhà thơ Việt Nam đương đại (Phần II)

http://dohoang.vnweblogs.com/gallery/3360/A%20b%20Do%20Hoang%201.jpg
Tác giả: Nhà thơ Đỗ Hoàng

Bài đăng trên blog Đỗ Hoàng 14/8/2012 11:21


27- Viễn Phương hề, chẳng chịu thua,
Làm con chim hót lăng vua suốt đời!


30- Trần Đăng Khoa thật thần đồng,
Ăn vàng cộng sắn nên không thành ngài!

32- Nguyễn Duy một thời tiếng tăm,
Cũng nhờ rau má, nong tằm, ca dao!

33- Chim Trắng thuộc loại cựu trào,
Nhưng mà chẳng có câu nào nhớ ghi!

34- Tạ Vũ uống rượu li bì,
Đem men quét mãi còn gì là thơ!

35- Nguyễn Thụy Kha đau giả vờ,
Nhạc thơ mưng tấy đồ rờ xi rê!

36- Trần Nhuận Minh thấu tình quê,
Nỗi niềm câu chữ nhớ về cố hương!

41- Vũ Quần Phương đốt đuốc tìm,
Bè thơ sóng gió đánh chìm từ lâu!

46- Bùi Giáng lục bát như kiều,
Mưa Nguồn tưới thắm những chiều đảo điên!

47- Đại Vô Lối Thanh Tâm Tuyền,
Hơi đâu mà nhắc cái tên ta bà!

48- Bằng Việt vượt giàn đồng ca
Bằng dòng thơ dịch tài ba ai tày!

49- Nữ thi sỹ Lê Thị Mây,
Chẳng còn một mảnh trăng gầy chờ mong!

50- Y Phương tắm nước sông Hồng,
Nương thơ bị lũ bướm đồng cắn hư!

Mấy lời dịch dỗm thiếu dư,
Dẫu cho sấm sét, hùm ngư cũng chiều!


Hà Nội, ngày 15 tháng 8 năm 2012

Đỗ Hoàng
Sổ toẹt thế này là không ổn. Không thuyết phục. Nhưng thôi. Thật buồn!
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Tuấn Khỉ

Đồ Nghệ đã viết:
Tuấn Khỉ đã viết:
Chân dung nhà thơ Việt Nam đương đại
Sổ toẹt thế này là không ổn. Không thuyết phục. Nhưng thôi. Thật buồn!
Thơ ông Đồ Nghệ kiệm lời
Một câu, nửa nói, nhưng thôi, lại buồn!
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Tuấn Khỉ

Chân dung nhà thơ Việt Nam đương đại (Phần III)

http://dohoang.vnweblogs.com/gallery/3360/A%20b%20Do%20Hoang%201.jpg
Tác giả: Nhà thơ Đỗ Hoàng

Bài đăng trên blog Đỗ Hoàng 23/8/2012 11:53

Tiểu thuyết gia, nhà thơ Nguyễn Hiếu đã bỏ công sức đọc và Thẩm thơ các nhà thơ đương đại Việt Nam. Với mắt nhìn bốn cõi, thấu suốt kiếp người, tấm lòng trung thực thẳng thắn dũng cảm đã khắc họa chân dung các nhà thơ Việt Nam.

 Tôi Đỗ Hoàng mạo muội dịch nó ra văn vần. Trong khi dịch, tôi có thêm bớt để hợp với hình thức thơ ca, kính mong Sư huynh Nguyễn Hiếu và bạn đọc thông cảm!


51- Trần Mai Ninh tài sức dư
Nhớ máu cũng đủ trả thù cho quê!

52- Hoàng Lộc viếng bạn sẽ về,
Khó ai quên được thơ thề thiêng liêng.

53- Trần Hữu Thung tạo nét riêng,
Là nhờ thăm lúa đồng chỉêm quê mình.

54- Xuân Hoài ở chốn lặng im,
Thơ ông không biết đi tìm nơi mô?

55- Tài hoa là Trần Ninh Hồ,
Thấm câu liền chị dạt xô mạn thuyền.

56- Nguyễn Phan Hách rất có duyên,
Làng tôi quan họ một miền thơ văn!

57- Hà Nhật làm ánh sao băng
Trên trời thơ Việt cùng trăng sáng ngời

58- Pờ Sảo Mìn con núi đồi,
Cây hai nghìn lá nhiều người nhớ anh!

59- Ngọc Tường Hoàng Phủ lên xanh,
Cuối cùng thì chút công danh chẳng còn!

60- Lâm Thị Mỹ Dạ mỏi mòn,
Hết mùa đổi hố bom tròn ra vuông!

61- Hải Bằng dù mất đế vương,
Tuổi tên còn với quê hương lâu dài.

62- Nguyễn Bắc Sơn thật thi tài,
Vẽ ra chất lính hình hài đánh thuê.

63- Hồ Vi chỉ một lời quê,
Thế là cũng đủ nhớ về thơ ông.

64- Vi Thùy Linh lúc lên đồng,
Khỏa thân chăn lạnh thèm chồng, thèm anh!

65- Vĩnh Nguyên để lại mấy vần,
Đời và thơ giữ trong ngần cho nhau.

66- Võ Quê lẩn lộn vàng thau,
Giờ chắc đã thấm nỗi đau cọng dừa!

67- Đinh Thu Vân tự bị lừa
Thơ gom đem dán chẳng vừa con tem.

69- Chính Hữu rất giỏi thổi kèn
Cho đồng chí quyết xông lên diệt thù!

70- Vũ Cao vượt đám sương mù
Núi Đôi cũng đủ đền bù đời thơ.

71- Thu Bồn nhờ chút mộng mơ,
Chim chơ rao được tôn thờ trên nương.

72- Vương Anh, Ngọc Lạc xứ Mường
Nhưng thơ lai giống phố, đường Thanh Hoa.

73- Trần Quang Đạo rất tài hoa,
Giọng quê nhà chẳng nhạt nhòa trong tim!

74- Nguyễn Linh Khiếu quyết đi tìm
Những con trâu mộng thành chim đại bàng!

75- Thanh Hải bỏ phố lên ngàn
Mồ anh hoa nở đã tàn từ lâu!

Đỗ Hoàng mạo dịch mấy câu,
Dù cho giật hết tóc râu cũng ừ!


Hà Nội ngày 22 – 8 - 2012

Đỗ Hoàng
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Tuấn Khỉ

Tiếc cho cái luật nhà thơ

Bài đăng trên TranNhuong.com Thứ năm ngày 23/8/2012

Công Nông

http://trannhuong.com/Uploads/Photos/News/NHATHOE.jpg

- Bác Nông à, hai ba tuần nay, em nín thở theo dõi “vụ thơ” của một ông giáo sư tiến sỹ, viện trưởng một viện khoa học về công nghệ thông tin.

- Giáo sư, tiến sỹ cũng có thể làm thơ chứ sao! Ông Xuân Diệu ngày xưa là anh thu thuế, ông Huy Cận là kỹ sư canh nông, thế mà thơ phú hay ra trò.

-  Thơ của ông này ghê lắm, đã dịch ra tiếng Anh gửi đi dự giải Nô ben văn chương.

- Thế thì chắc là thơ phú phải siêu phàm lắm?

- Chắc thế. Đài Truyền hình quốc gia đã làm mấy bộ phim về thơ ông này, có phim còn thuyết minh bằng tiếng Anh. Thơ in hàng vạn cuốn, cả tiếng Việt, tiếng Anh, bán, cho, tặng cả ta cả tây. Ông giáo sư cùng với một vị còn đi nói chuyện về hai tập thơ, thu về cả chục tỷ đồng.

- Thời buổi kinh tế khó khăn mà thơ lại cho thu hoạch thế thì quả là siêu rồi.

- Ông này còn in hai tập thơ dưới dạng thư pháp, khổ to như chiếc chiếu, bìa bằng gỗ quý, để lập kỷ lục quốc gia về cuốn thơ...to và nặng nhất Việt Nam.

- Kinh!

- Thế nhưng, đáng ngạc nhiên nhất là tốc độ làm thơ của ông này.  Theo ông ta nói, trước đây ông ta chưa từng làm thơ, thế mà đêm hôm ấy ở trong chùa, ông nổi hứng viết một mạch 121 bài thơ. Trong lúc đó một nhà thơ nổi tiếng khác đi cùng chỉ viết được vỏn vẹn có bốn câu.

- Kinh văn khủng! Tào Thực ngày trước đi bảy bước đọc một bài thơ, nhưng cũng chỉ được bài “củi đậu đun hạt đậu, hạt đậu khóc hu hu” thôi. Bác này chỉ một đêm mần được 121 bài thì đúng là kỷ lục thế giới. Vô đối! Vô đối!

- Chả thế mà tổ chức hẳn một hội thảo khoa học về thơ của giáo sư này, có tới hơn hai chục báo cáo khoa học. Đích danh bác nhà thơ chủ tịch Hội nhà văn đến dự và dành cho thơ của giáo sư những lời có cánh như...thơ.

- Thế thì tuyệt quá rồi còn gì. Nước Nam mình mấy ngàn năm văn hiến phen này mới có cơ giật Nô ben văn chương. Các cụ Nguyễn Du, Nguyễn Trãi chắc cũng ngậm cười...

- Hi Hi! Xem ra lại không hanh thông thế đâu bác ạ

- Sao? Có chuyện gì không ổn à?

- Có đấy. Sau hội thảo của Hội nhà văn, trái ngược với những gì truyền thông nhà nước lăng xê là một cao trào chê bai, hạ nhục “thơ thần” của vị giáo sư trên các trang mạng. Họ cho rằng thơ của giáo sư “chưa sạch nước cản”, gọi là thơ Đường mà bài nào cũng sai niêm, sai luật, chỉ đáng đọc ở câu lạc bộ thơ phường thôi. Đặc biệt, một vị luật sư vốn là bạn của “nhà thơ - giáo sư” thấy sự đời trớ trêu quá, không đừng được đã công khai chỉ ra cái gọi là “thơ thần” của vị này chỉ là “văn vần hóa” một cuốn sách viết về danh thắng Yên Tử của người khác mà thôi.

- Nghĩa là đạo văn? Ông giáo sư phản ứng ra răng?

- Ông này nói đó không phải là thơ ông ấy, không biết thì đừng nói bậy bạ.

- Thế là ông ấy thú nhận đạo văn rồi còn gi?

- Không phải thế. Ông ta nói đó là thơ của thần, của Phật. Ông ta chỉ là người được tiền nhân mượn bút mà thôi.

- Kinh! Thế còn Hội Nhà văn?

- Thường vụ Hội Nhà văn đã ra thông báo coi đây là một sự cố và yêu cầu từ nay trở đi phải cẩn thận, nghiêm túc trong việc sử dụng...hội trường Hội Nhà văn để tổ chức hội thảo.

- Hay nhỉ? Nhưng mà tớ nghiệm ra vị giáo sư – nhà thơ này nói ông ta được Tiền nhân mượn bút là đúng đấy, chỉ thừa một chữ thôi.

- Chữ gì?

- Thừa chữ nhân. Nhân nào không biết, nhưng Tiền cho ông ta mượn bút là cái chắc!

- Em thì lại thấy tiếc cho bác nghị Minh Hồng nhà ta. Giá như Luật Nhà thơ của bác ấy ra đời rồi thì đâu có thứ thơ thần, thơ thẩn này!
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

.

PGS.TS. Nguyễn Hữu Sơn: Thơ Hoàng Quang Thuận có “tính vấn đề” nên đã nảy sinh nhiều ý kiến khác biệt và trái chiều


   
PGS.TS. Nguyễn Hữu Sơn, người điều hành Hội thảo “Hoàng Quang Thuận với non thiêng Yên Tử” nói về những phản ứng của dư luận sau khi Hội thảo diễn ra. Theo quan điểm của ông Sơn, thơ Hoàng Quang Thuận đúng nghĩa là một “hiện tượng” trong đời sống văn học.

* Việc tổ chức hội thảo “Hoàng Quang Thuận với non thiêng Yên Tử” vừa qua gây nhiều dư luận trái chiều, theo ông, nguyên nhân chủ yếu là do đâu?

PGS.TS. Nguyễn Hữu Sơn: Tôi tham gia hội thảo trong tư cách người thẩm định các tham luận và viết báo cáo tổng kết. Văn bản báo cáo tổng kết hội thảo cũng đã được “văn hành công khí”. Về những dư luận trái chiều, tôi cho rằng có hai nguyên nhân chính. Thứ nhất, do những đặc điểm của chính thơ Hoàng Quang Thuận (vị thế tác giả; màu sắc truyền kỳ gắn với sự ra đời các bài thơ và tập thơ; nội dung và hệ thống chủ đề gắn với non thiêng Yên Tử; quá trình xuất bản, tái bản, truyền bản ở trong nước và nước ngoài; các kỷ lục về cân nặng và số lượng phát hành; vai trò các nhà thơ, nhà phê bình và độc giả nói chung đã góp phần tạo nên dư luận trong suốt hơn một thập kỷ vừa qua, v.v…). Có thể nói hiện tượng thơ Hoàng Quang Thuận đã nằm trong “tầm đón đợi” với rất nhiều dự cảm và đánh giá khác nhau của dư luận bạn đọc. Thứ hai, từ chính những đặc điểm của thơ Hoàng Quang Thuận đã dẫn đến những cách tiếp nhận, cảm nhận, lý giải và đánh giá khác nhau, thậm chí đúng là “gây nhiều dư luận trái chiều”. Thực tế qua hội thảo về thơ Hoàng Quang Thuận, tôi thấy các nhà phê bình đã không chỉ một chiều tung hô mà còn có nhiều ý kiến khác chiều, trái chiều. Những ý kiến khác biệt, trái chiều này thể hiện ngay ở các tham luận và ý kiến phát biểu trực tiếp tại hội thảo chứ không phải chỉ ở dư luận sau hội thảo, “hậu” hội thảo. Nói trộm thế này, tôi rất lấy làm ngại về những hội thảo khoa học mà chỉ có sự đồng thuận, đồng ý, đồng tình, ca ngợi một chiều…

* Có ý kiến cho rằng, thơ ông Thuận không xứng đáng để hội thảo, ông thấy thế nào? Và theo ông thơ như thế nào thì “được” tổ chức hội thảo?

PGS.TS. Nguyễn Hữu Sơn: Đây là một trong những vấn đề mấu chốt mà chúng ta cần thẳng thắn đối thoại, luận bình. Cá nhân tôi cho rằng thơ của nhà thơ Hoàng Quang Thuận là một “hiện tượng” đúng nghĩa, đã xuất hiện trên văn đàn từ 14 năm nay, dài gần bằng cả quãng đời 16 năm lưu lạc của Thúy Kiều. Như chúng ta đều biết, thơ Hoàng Quang Thuận tự nó đã có một số phận, một đời sống riêng và được dư luận chú ý. Cần khẳng định rằng hiện tượng thơ Hoàng Quang Thuận hoàn toàn có quyền bình đẳng với nhiều hiện tượng thơ khác (thơ hình thể, thơ trình diễn, thơ in lịch, thơ xếp đặt, thơ hú hét, thơ loạn, thơ viết trên thúng, mủng, giần, sàng…). Việc tổ chức hội thảo thơ Hoàng Quang Thuận chính là nhằm đặt thơ ông trên bàn nghị sự, đưa thơ ông ra trước dư luận để mọi người cùng phân tích, lý giải, chỉ rõ mức độ những hạn chế, đúng sai, được mất. Chỉ có qua hội thảo (và dư luận “hậu hội thảo”) thì công chúng bạn đọc mới dần đánh giá đúng hiện tượng thơ Hoàng Quang Thuận.

Đã đến lúc chúng ta không nên đánh đồng việc “được” tổ chức hội thảo như một sự tung hô, vinh danh một chiều. Thực tế cho thấy đối tượng “được” tổ chức hội thảo còn tùy thuộc vào “tính vấn đề” của đề tài. Ở đây, “tính vấn đề” của hội thảo “Hoàng Quang Thuận với non thiêng Yên Tử” là nhằm lý giải hiện tượng thơ Hoàng Quang Thuận cả về phía chủ thể sáng tạo cũng như phía người tiếp nhận đã tồn tại trong suốt mười mấy năm qua. Bạn đọc theo dõi câu chuyện thời sự “hậu hội thảo” thơ Hoàng Quang Thuận mới rõ thêm các vấn đề thơ thiền và thơ mang cảm quan Phật giáo, mối quan hệ giữa nội dung và hình thức, sự thật Hoàng Quang Thuận “đạo văn” hay không “đạo văn”?… Nhìn rộng ra, tác giả nào, tập thơ nào thực sự có “tính vấn đề” thì đều có thể bình đẳng trở thành đối tượng của các cuộc hội thảo…

* Phần lớn các tham luận dự hội thảo cũng được cho là “bốc thơm” tác giả, là người phụ trách việc thẩm định bản thảo tham luận, ông nói gì?

PGS.TS. Nguyễn Hữu Sơn: Như tôi đã nói, chính vì thơ Hoàng Quang Thuận có “tính vấn đề” nên đã nảy sinh nhiều ý kiến khác biệt và trái chiều. Bản thân hiện tượng “gây nhiều dư luận trái chiều” trong hội thảo này cũng chính là một vấn đề có “tính vấn đề” cần phải giải quyết. Ở đây thực sự có nhiều ý kiến “bốc thơm” và đồng thời cũng có nhiều ý kiến phê phán, phản bác, chê bai đến tan tành xác pháo. Điều này có lý do bởi mỗi nhà phê bình sẽ tùy thị hiếu, tùy cơ duyên và sự khế hợp, “thông kênh” với chất thơ Hoàng Quang Thuận mà có cách định vị khác nhau. Ngay với từng câu, từng bài thơ và cả tập thơ, có người cho là hay và tuyệt hay, có thể đưa vào tuyển thơ thế kỷ và dự giải Nobel, nhưng có người lại cho là thứ thơ bắt vần, nhảm nhí, chẳng phải tiền nhân ban cho, cũng chẳng phải thơ thiền, chẳng phải Đường luật chi ráo. Thơ Hoàng Quang Thuận, nếu được 100% người “bốc thơm” thì may chăng có thể đưa dự giải Nobel; nếu bị 100%  người đồng thuận chê thì chắc chắn đã không thể có hội thảo khoa học này. Trên tư cách người thẩm định các tham luận, tôi tôn trọng các ý kiến riêng và cố gắng tổng thuật một cách khách quan các nội dung chính, bao gồm cả khen và chê.

* Việc cư xử với tham luận do Ban tổ chức “đặt hàng” và các tham luận tự do gửi đến có gì khác biệt?

PGS. TS.Nguyễn Hữu Sơn: Trên tư cách người thẩm định bản thảo và tổng kết hội thảo, tôi thấy không có gì khác biệt và “cư xử” thật sự bình đẳng với mọi tham luận.

Xin cám ơn ông!

Nguyễn Hữu Sơn & Phúc Thiện Nguyên

Phúc Thiện Nguyên (thực hiện)
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

.

TỔNG KẾT HỘI THẢO

HOÀNG QUANG THUẬN VỚI NON THIÊNG YÊN TỬ

        

Kính thưa…

Cho đến 9 giờ sáng hôm nay, Ban tổ chức Hội thảo “Hoàng Quang Thuận với non thiêng Yên Tử” đã nhận được 21 bản tham luận của các nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình, cán bộ giảng dạy, nhà báo thuộc nhiều viện nghiên cứu, trường đại học, cơ quan báo chí ở Trung ương và địa phương; từ khắp các vùng miền Quảng Ninh, Hà Nội, Huế, TP. Hồ Chí Minh, Đà Lạt – Lâm Đồng…

Thay mặt Ban tổ chức, tôi xin tổng kết nội dung Hội thảo theo bốn nhóm vấn đề chính sau đây.

1- Trước hết, chúng ta cần thừa nhận và ghi nhận sự xuất hiện tập thơ Thi vân Yên Tử của tác giả Hoàng Quang Thuận như một “hiện tượng” văn học (bên cạnh nhiều “hiện tượng” khác) bởi tự nó đã có một số phận, một đời sống lịch sử riêng; bởi đã có thủ bút nhận xét của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, bởi những kỷ lục về khổ sách, khối lượng sách, số lượng in, mức độ phổ cập ở trong nước cũng như thế giới và số lượng các bài nghiên cứu, phê bình, giới thiệu, đọc sách, điểm sách, phỏng vấn, trao đổi, luận bình xuất hiện trong suốt thời gian qua… Trong Hội thảo lần này, một vấn đề nổi bật được các nhân chứng và nhiều nhà phê bình như Nguyên An, Dương Kỳ Anh, Nguyễn Hòa, Linh Sơn, Đỗ Ngọc Yên… quan tâm là khả năng sáng tạo của tác giả Hoàng Quang Thuận thuộc “dòng thơ tâm linh”, “viết thơ như lên đồng”, “viết trong vô thức”, “tiền nhân mượn bút”,có yếu tố“trời cho”, “phút giây xuất thần”, “nhập thần”, “thiên linh dẫn dắt”, “cảm thức tâm linh”, “phút giây mặc khải”… Điều này được nhà thơ Hữu Việt nhấn mạnh trong đề dẫn: “Hiện tượng này, qua cuộc hội thảo hôm nay, chúng ta cũng mong muốn sẽ được lý giải phần nào”. Đây là một vấn đề thậm khó. Nhà phê bình Nguyên An tỏ ý xác nhận hiện tượng này và liên hệ với trường hợp thi sĩ Hoàng Cầm từng sáng tác một số bài thơ trong các tập Về Kinh Bắc, Mưa Thuận Thành, Lá diêu bông như có người mách bảo trong mơ. Với kinh nghiệm của người sáng tác, nhà thơ Hữu Thỉnh xác định: “Tuy vậy, không nên thần bí hóa khi giải thích các bài thơ của anh. Làm như thế vô tình làm hạ thấp vai trò của chủ thể”... Nhìn rộng ra, đây là hiện tượng tựa như shaman giáo, giáng bút của thần tiên, nhập thần, lên đồng, Tết nhảy của người Dao; hoặc với chứng dẫn Phùng Khắc Khoan gặp tiên giáng bút thơ ở phủ Tây Hồ, hoặc sự tồn tại của 254 tập thơ được coi là thơ giáng bút hiện được lưu trữ ở Viện Hán Nôm. Chỉ có điều lối thơ nhập thần, giáng bút kỳ bí này phát tiết cực nhanh nhưng thường nôm na, thiếu tính nghệ thuật và chỉ được lưu truyền trong phạm vi khá hạn hẹp. Với trường hợp thơ Hoàng Quang Thuận, rất tiếc rằng cho đến nay giới nghiên cứu, phê bình lại vẫn chưa có được lời giải thích nào thật cặn kẽ, thỏa đáng.

         2- Trong số 21 tham luận dự Hội thảo lần này có hai tác giả là Dương Kỳ Anh và Linh Sơn có liên hệ và chú ý nhiều hơn đến Hoa Lư thi tập, còn lại chủ yếu tập trung vào việc bàn luậnThi vân Yên Tử. Ở đây có năm nhà phê bình là Ngô Hương Giang với tham luận Cảm hứng thiền trong thơ Hoàng Quang Thuận, Hà Ngọc Hòa với tham luận Không gian “thiền” trong Thi vân Yên Tử, Vũ Bình Lục trong tham luận Thi vân Yên Tử với tâm thiền Hoàng Quang Thuận, Trần Thị Thanh với Thiền vị trong Thi vân Yên Tử của Hoàng Quang Thuận và Phạm Quang Trung với Cảnh vật trong cảm thức Thiền tông là trực diện nhấn mạnh khía cạnh ngọn nguồn cảm hứng thiền, tâm thế thiền và xa gần xác định các đặc điểm thơ thiền Hoàng Quang Thuận. Còn lại các tham luận thường dè dặt trong cách nói về một “Cảm thức tâm linh…” (Dương Kỳ Anh), “Dấu tích vua Phật Trần Nhân Tông…” (Đặng Hiển), “Một chân dung thơ Phật tính hiền truyền” (Hoàng Trung hiếu), “Chữ tâm trong Thi vân Yên Tử” (Mộc Lan), “Có một nhà thơ danh sơn Yên Tử” (Trần Nhuận Minh), “Yên Tử qua thơ Hoàng Quang Thuận” (Thu Phong), “phép nhiệm màu của tâm thức” (Linh Sơn), “Vẻ đẹp cõi Phật” (Nguyễn Toàn Thắng), “Tình yêu đất nước và chất thiền” (Thế Trung), “Lạc đạo tùy duyên cùng Thi vân Yên Tử” (Đỗ Ngọc Yên)… Điều này cho thấy những băn khoăn và cách hiểu với nhiều mức độ khác nhau trong việc định giá thơ Hoàng Quang Thuận thực sự là thơ thiền hay chỉ là thơ mang cảm quan Phật giáo, thơ viết về vùng đất Phật Yên Tử?

         3- Từ thực tế nêu trên, người đọc tất yếu sẽ đặt ra những câu hỏi và mở ra những hướng lý giải khác nhau: Nếu thơ Hoàng Quang Thuận không phải là thơ thiền thì là thơ gì? Liệu có thể định tính được những sản phẩm thơ mang cảm quan Phật giáo và thơ viết về vùng đất Phật Yên Tử của Hoàng Quang Thuận hay không?

Có thể nói đây là vấn đề nan giải bởi ngay với các bài thơ thiền hay thơ kệ thời Lý – Trần và thơ dưới thời trung đại mang cảm quan Phật giáo thì ranh giới cũng chưa phải đã rõ ràng. Với Thi vân Yên Tử, các nhà nghiên cứu, phê bình đã khảo sát, phân tích từ nhiều điểm nhìn khác nhau. Chẳng hạn, Vũ Bình Lục  trong tham luận Thi vân Yên Tử trong tâm thiền Hoàng Quang Thuận nhận diện: “Cả tập thơ 143 bài viết về một kỳ quan, một danh thắng vốn là trung tâm Thiền phái Trúc Lâm Đại Việt, quả là xưa nay chưa từng thấy”… Nguyễn Toàn Thắng trong tham luận Vẻ đẹp cõi Phật trong Thi vân Yên Tử của Hoàng Quang Thuận đã tiến hành thống kê, phân loại 143 bài thơ trong Thi vân Yên Tử thành bốn đề tài: 1) Thơ viết về cảnh đẹp Yên Tử trong không gian Phật giáo; 2) Thơ viết về huyền thoại Thiền phái Trúc Lâm và Phật Hoàng Trần Nhân Tông; 3) Thơ viết về các vị cao tăng đắc đạo của Thiền phái Trúc Lâm; và 4) Thơ viết về các trạng thái Niết Bàn nơi Cõi Phật…; từ đó đi đến xác định: “Toàn bộ Thi vân Yên Tử là một thế giới tinh thần Phật giáo Việt Nam với muôn vàn cảm xúc… Hoàng Quang Thuận đã tạo ra được vẻ đẹp cõi Phật của Thiền phái Trúc Lâm trong cánh rừng chữ nghĩa bạt ngàn của Thi vân Yên Tử”. Có thể nói cách hiểu này không đồng thuận với những ý kiến mặc nhiên coi Thi vân Yên Tử là thơ thiền. Tương đồng với cách hiểu trên đây, Đỗ Ngọc Yên trong tham luận Lạc đạo tùy duyên cùng Thi vân Yên Tử xác định: “Có thể nói, đây là tập thơ duy nhất chỉ viết về phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ và Phật tích của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử”, đồng thời nhấn mạnh đặc điểm hệ thống chủ đề: “Cụ thể sự phân chia các chủ đề trong Thi vân Yên Tử như sau: Các bài thơ nói về vua quan nhà Trần có 12 bài, Phật tử 22 bài, Phật tích 42 bài, địa danh 47 bài, chim thú 5 bài, cây cối 2 bài và các chủ đề khác 13 bài. Tổng số 143 bài”. Vậy còn đâu là những bài thơ thiền đúng với ý nghĩa thiền thi!?...

Nhìn rộng ra, nhiều tham luận đặt vấn đề xác định thực chất đây là những bài thơ du ký, thi ký, vịnh cảnh, đề vịnh thắng tích non sông. Nhà thơ Hữu Thỉnh trong tham luận Một hồn thơ sau những bức tranh tôn giáo xác định: “Thi vân Yên Tử có sự tập trung cao độ về mặt đề tài. Đó là tập thơ hoàn toàn về Yên Tử. Tất cả di tích đều đi vào thơ… Anh làm thơ như người vẽ tranh vậy. Và sau tranh ta bắt gặp hồn người”… Nhà phê bình Nguyên An trong tham luận có ý chất vấn Với Hoàng Quang Thuận, anh sẽ viết tiếp chứ? đã “mạnh dạn” nêu vấn đề: “Một là, ngay trong cả hơn trăm bài đã được đọc (và săm soi, và trầm trồ, rồi nghĩ thêm nữa), anh có thấy là chúng, phần lớn, đều thuộc loại thơ vịnh cảnh? Loại thể thơ này đã sống khỏe trong quá khứ, đang có mặt trong hôm nay một cách đàng hoàng, được vì nể, trân trọng”… Tác giả Mộc Lan trong tham luận Chữ tâm trong Thi vân Yên Tử lại đặt mình ở vị thế nhà du hành mà dõi theo bước chân tác giả: “Như một vị sứ giả của đất Phật, Hoàng Quang Thuận đã dẫn dắt các Phật tử về chiêm bái Yên Tử bằng vần thơ tứ tuyệt và thất ngôn bát cú đầy tôn nghiêm và linh thiêng (…). Bức tranh mở đầu tập thơ đã khái quát đặc trưng núi non Yên Tử (…). Các địa danh non thiêng Yên Tử đã lần lượt đi vào thơ Hoàng Quang Thuận thật như nhiên, tự nhiên (…). Trong những lát cắt chuyến hành trình về với Yên Tử, ta đã bắt gặp một cái tôi trữ tình đầy ngỡ ngàng trước cảnh, tình nơi đây”… Tác giả Thế Trung trong tham luận Tình yêu đất nước và chất thiền Thi vân Yên Tử lại dẫn giải theo một cách khác về mối quan hệ cơ hữu giữa chất thiền và thể tài thơ du ký: “Đến với Thi vân Yên Tử, người đọc dễ nhận thấy Hoàng Quang Thuận có lúc như chính anh đang nhập thiền, có khi anh lại như một hướng dẫn viên du lịch, đem đến cho độc giả những thông tin thú vị về địa danh Yên Tử qua lăng kính thiền của mình”… Tác giả Thu Phong trong tham luận Yên Tử qua thơ Hoàng Quang Thuận đã đi đến kết luận: “143 bài thơ trong tập Thi vân Yên Tử của Hoàng Quang Thuận còn có giá trị như cuốn cẩm nang văn hóa, lịch sử, địa lý – và trên hết là cẩm nang dư địa chí tâm linh – hướng tâm cho mỗi chúng ta đến thăm vùng địa danh này”…

Quả cũng chưa dễ tìm được sự đồng thuận…

4. Còn lại chủ điểm thứ tư được nhiều nhà phê bình quan tâm tìm hiểu, nhận xét, lý giải chính là vấn đề thể thơ và hình thức nghệ thuật của Thi vân Yên Tử. Có nhiều ý kiến khác nhau về những bài thơ “bốn câu bảy chữ”, “tám câu bảy chữ” này có đúng là Đường luật không, hay là Đường luật phá cách? Bởi lẽ thơ Đường vốn có yêu cầu nghiêm ngặt về số câu chữ, luật đăng đối, âm vận; kể cả khi có sự phá cách nhất định cũng vẫn phải đảm bảo nguyên tắc “Nhất tam ngũ bất luận, nhị tứ lục phân minh”… Với tác phẩm được gọi là nghệ thuật thi ca, chúng ta không thể lảng tránh, bỏ qua được điều này. Việc xuất hiện những cách tiếp nhận, lý giải, nhận xét khác nhau là điều bình thường trong mỗi hội thảo khoa học, thậm chí còn là điều vô cùng cần thiết. Trực diện bàn luận, lý giải về vấn đề này, nhà phê bình Nguyễn Hòa lên tiếng phản biện: “Dù tác giả làm nhiều bài thơ tứ tuyệt, hoặc ghép hai bài tứ tuyệt thành một bài thất ngôn bát cú cho có dáng dấp Đường luật, thì ngay cái việc cố gắng ép vần cũng đã đưa lại ý tứ khôi hài…”, đồng thời cảnh tỉnh: “Xin chớ nghĩ hễ trong bài thơ có hình ảnh chùa chiền, non cao, bóng núi, cây đa, mây trời, trăng treo, tiếng hạc… là bài thơ sẽ có “chất thiền”…

Không đi vào nhận diện hình thức câu thơ và thể thơ nhưng nhà phê bình Phạm Quang Trung đã tạo nên điểm nhấn riêng khi cảm nhận về nguy cơ “sa đà vào diễn tích Phật lan man”, “làm giảm đi ít nhiều chất văn chương cần có” và dẫn chứng qua các bài Tổ Trúc Lâm, Vua Phật…

Khác biệt hơn, nhà phê bình Đỗ Ngọc Yên trong tham luận Lạc đạo tùy duyên cùng Thi vân Yên Tử  (12 trang) thực sự công phu đã có ý biện giải, bào chữa và “hạ điểm sàn” cho những hạn chế về hình thức:

“Thi vân Yên tử gồm 143 bài, hầu hết được viết theo thể Đường luật biến thể như: thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, thất ngôn thập nhị cú, ngũ ngôn, lục ngôn. Nói là Đường luật biến thể vì tất cả các bài thơ trong tập này đều không thuộc thời gian, không gian mà chính thể Đường luật đã trở thành một hình mẫu cách đây hơn chục thế kỷ và chủ thể của nó cũng không phải là người Trung Quốc.

Mặt khác, nhà thơ Hoàng Quang Thuận dường như không mấy quan tâm, câu nệ quá về niêm luật, cấu trúc của Đường luật, bởi lẽ ngay từ đầu ông không có ý định “làm thơ”, mà ông chỉ mượn ngôn ngữ thơ để ghi lại tâm tình, cảm xúc của mình ở chốn Thiền định này thôi”…

Đỗ Ngọc Yên xác định Hoàng Quang Thuận đã “tìm đến với lối thơ cổ hay ít nhất cũng là giả cổ”. Tuy nhiên, việc mở rộng liên hệ, so sánh đôi khi lại đưa tác giả tham luận đến những nhận định chưa chính xác, nếu không muốn nói là cảm tính: “Có lẽ, Đường luật biến thể là thể thơ thường gặp ở các bài thơ thiền có từ thời Lý – Trần và nó là công cụ hữu hiệu nhất có thể lột tả được các sắc thái tâm trạng khác nhau của con người trước cảnh vật, thiên nhiên hay sự trắc ẩn của lòng người chốn Thiền định mà các bậc tiền nhân chân tu chuyên dùng” (!?)…

Nhà thơ Hữu Thỉnh cũng tinh tế cảm nhận: “Hình như Hoàng Quang Thuận cũng không để ý lắm đến kỹ thuật, đến cách tân, mà cứ thả bút theo dòng xiết của tâm hồn”…

Riêng về vấn đề thể thơ và hình thức nghệ thuật của Thi vân Yên Tử, xem ra còn lắm điều hay, nhiều điều gợi mở cho bạn đọc và giới phê bình.

         THAY LỜI KẾT

         Với 21 bản tham luận và những ý kiến góp ý, trao đổi, tranh luận sôi nổi và chính sự hiện hữu của quý vị đại biểu cùng quan tâm đến đời sống văn chương và cụ thể với tập Thi vân Yên Tử đã là một thành công của Hội thảo. Chúng tôi hy vọng qua Hội thảo lần này, các vấn đề không phải đã khép lại mà chính là cần tiếp tục được mở ra, giúp chúng ta làm quen và chủ động trước mọi hiện tượng văn học, trong đó có hiện tượng Thi vân Yên Tử.

         Vì thế, lời kết cho Hội thảo ở đây cũng là Lời kết mở.

         Xin kính chúc nhà thơ Hoàng Quang Thuận và quý vị đại biểu sức khỏe, có thêm những đóng góp mới trong hoạt động nghiên cứu, phê bình văn học.

Hà Nội, ngày 8/8/2012

NGUYỄN HỮU SƠN
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Tuấn Khỉ

Đồ Nghệ đã viết:

PGS.TS. Nguyễn Hữu Sơn: Thơ Hoàng Quang Thuận có “tính vấn đề” nên đã nảy sinh nhiều ý kiến khác biệt và trái chiều

Đồ Nghệ đã viết:

TỔNG KẾT HỘI THẢO
HOÀNG QUANG THUẬN VỚI NON THIÊNG YÊN TỬ

https://lh4.googleusercontent.com/-g0vu3lflxHI/UDYSpjZTffI/AAAAAAAAJjk/j9RKigL-RMY/s346/rez_407_HQT.jpg

Vịnh Hoàng Quang Thuận

Mạo nhận danh thiền, giả cách tu,
Thơ ca chẳng đáng nửa đồng xu.
Trên lừa lọc Thánh, Thần, Trời, Phật,
Dưới dối gian Dân, Trí, Sỹ, Phu.
Vạn kiếp còn nguyên ngàn tiếng nhục,
Trăm năm mất cả một đời ngu.
Buồn thay lãnh đạo nền Văn Học
Có mắt mà sao hũ nút mù.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

.

Hoa tàn, mưa tạnh, non yên lặng...
(Về hiện tượng thơ Hoàng Quang Thuận)



1.Phần 1.
  
Hiện tượng thiên tài thơ, siêu việt thơ, thần thánh thơ... của GSTS Hoàng Quang Thuận - Viện trưởng Viện Công nghệ Viễn thông Việt Nam - qua hai tập “Thi vân Yên Tử” và “Ngọa Vân Yên Tử” mà tạp chí Nhà văn Việt Nam vừa tổ chức hội thảo với những bài tụng ca vi vút tận trời xanh, xem như “dòng thơ Thiền non thiêng Yên Tử” và người ta đã gởi đi dự giải Nobel văn học, người ta đã tặng cho đất Phật Yên Tử cuốn sách độc bản với kích thước 125cm x 80cm x 16cm nặng 120 ký đạt kỷ lục châu Á; lại nghe tin hành lang là người còn dự định cho khắc chạm “thơ Thiền này” khắp núi non Yên Tử nữa!

Hiện tượng ấy như là một cái gì cần phải “chau mày suy nghĩ” đối với nền văn học nước nhà, nhất là văn học Phật giáo. Người ta muốn quảng cáo như thế nào, đạt được kỳ vọng gì là quyền của người ta, nhưng ca tụng thái quá hai tập thơ ấy như là “thơ Thiền non thiêng Yên Tử” là một cái gì thiếu nghiêm túc, thiếu cẩn trọng cần phải được báo động:

- Thơ của Hoàng Quang Thuận có phải là “thơ thiền”  hay không?

- Một người Phật tử hay là một người mộ Phật, cảm xúc về Yên Tử có thể làm được “thơ thiền” chăng?

- Thơ “nhập đồng” hay là kiểu mượn bút viện cớ là của tiền nhân có phải là tinh thần Phật giáo không?

- Làm thơ mà “đạo văn” của người khác - dù bạn bè đã gắng gượng đính chính chỉ là “mượn văn” - cái tâm ấy có thể sáng tác ra “thơ thiền” được chăng?

Hỏi, dường như đã có câu trả lời. Một người Phật tử bình thường cũng cảm nhận, cũng ý thức được đấy là chuyện “không thể”. Thế nhưng, tại sao, thiên hạ chẳng thấy đó là chuyện “không thể”, lại làm một trò đùa hơi quá đáng để “tụng ca, tán thán ca” bằng một bè hợp xướng, một giàn đồng ca ”tươi vui xôm trò” như thế?

Cái hiện tượng thơ Thiền ấy tạo nên một cao trào “rôm rả” mà ta có thể tóm lược như sau:

- Hai tập thơ đã được in và tái bản bốn lần bằng tiếng Việt và cùng ba thứ chữ Việt-Pháp-Anh với số lượng in lên đến 25.000 bản. Và người ta đã làm đầy đủ hồ sơ hai tập thơ và dịch ra tiếng Anh gửi tham dự giải Nobel văn học.

- Có một vị giáo sư mê say ngồi dịch nó mặc dù tuổi cao sức yếu vì không thể cưỡng lại “chất Thiền” ở trong đó.

- Có một ngài nguyên Tổng giám đốc đài nghe nhìn, đọc thơ của ông Thuận đã cảm hứng thốt lên bằng một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt tuy không đúng niêm luật, lại tán thơm: “Tôi tưởng theo anh thăm Yên Tử/ Nào ngờ lạc bước chốn thi vân/ Hoàng Quang cửa Phật soi câu chữ/ Thuận dòng rửa sạch chốn bụi trần”.

- Đến nay hiện đã có hàng chục tờ báo ở trung ương và địa phương, từ báo Nhân Dân, Hà Nội mới, Sài Gòn Giải phóng đến các báo Hạ Long, Quảng Ninh, Thể thao - Văn hóa... đều đã có bài đăng tải về “hiện tượng thơ Hoàng Quang Thuận”. Thậm chí có người “cho lên mây xanh” nhưng dựa trên nền thực trạng bát nháo thơ Việt hôm nay: “Giữa thời buổi thơ in ra nhan nhản, chủ yếu xoay quanh đề tài tình yêu hoặc co vào suy tưởng chiêm nghiệm cá nhân, đôi khi rối mù tắc tị… thì  “Thi vân Yên Tử” và “Ngọa Vân Yên Tử” như một áng mây lành, thoát tục, trong trẻo đến lạ lùng dắt người đọc vào chốn Bồng Lai, rũ bỏ bụi trần trở về với bản ngã thiện tâm trong mỗi con người...”

- Tập thơ đã có tiếng vang thật là “quốc tế”, có lẽ do không tiếc công quảng cáo, tiếp thị, “ưu thế quan hệ” và cả cái gì đó khó hiểu nữa - đến đổi Tổng Thống Pháp đã khen ngợi, Tổng Thống Mỹ gởi lời cảm ơn và hoàng cung Thụy Điển đánh giá là cao siêu và sâu sắc!

- Trước sự động viên cổ vũ của “giàn đồng ca”, ông Thuận đã tự mình - hay ai đó xúi giục - gửi hai tập thơ ấy đi tham dự giải Nobel văn học; và có người còn đẩy “giá trị thơ thiền” ấy đi quá xa, rằng là: “Được giải hay không chẳng quan trọng bằng việc hai tập thơ đã là sách gối đầu giường của nhiều bạn đọc hôm nay và mai sau, đặc biệt đối với những ai yêu thích ‘dòng thơ Thiền’ với những trải nghiệm tâm linh cực kỳ thú vị”.

Còn nữa, chúng ta còn có duyên may mắn ngàn năm một thuở được nghe khúc hòa tấu vang vọng lên tận non thiêng Yên Tử, nó động đến, làm giật mình những hồn thơ cổ xưa, cổ kính của sơ tổ Trúc Lâm, tam tổ Huyền Quang và cả Nguyễn Trãi, Nguyễn Trung Ngạn nữa...

Để có thêm tư liệu dẫn chứng, tôi xin trích bài “Thi vân Yên Tử - tác phẩm và dư luận” của GD&TĐ Online đã đúc kết đại lược là: Sau Hội thảo “Hoàng Quang Thuận với Non thiêng Yên Tử” do Tạp chí Nhà văn - Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức ngày 8/8/2012, có rất đông người yêu thơ phản hồi bày tỏ tình cảm quan tâm, trân trọng những vần thơ đẹp lạ, rất thanh khiết mà dung dị mang đậm chất Thiền. Đại diện cho Hội Nhà văn, ông Hữu Thỉnh nói rằng: “Thơ anh - Hoàng Quang Thuận - là một bức tranh tôn giáo trầm mặc mà sống động, thanh khiết mà run rẩy!”
Những ai quan tâm đến nội dung buổi hội thảo mà GD&TĐ đề cập để biết cái “thanh khiết mà run rẩy” của Hữu Thỉnh muốn nói là cái gì - thì có thể đọc bài của ông:  “Một hồn thơ sau những bức tranh tôn giáo”. Tiếp theo, những ai muốn nghe những “vần thơ đẹp lạ, rất thanh khiết mà dung dị mạng đậm chất Thiền” ấy ra sao thì cứ nhờ chú Google dẫn đường để xem thêm một số bài khác:

- Lạc đạo tùy duyên cùng Thi Vân Yên Tử (Đỗ Ngọc Yên). Hoàng Quang Thuận với non thiêng Yên Tử (Hữu Việt). Cảm hứng thiền trong thơ Hoàng Quang Thuận (Ngô Hương Giang). Dấu tích vua Phật Trần Nhân Tông ở Yên Tử trong lòng thi nhân (Đặng Hiến). Vẻ đẹp cõi Phật trong Thi Vân Yên Tử của Hoàng Quang Thuận (Nguyễn Toàn Thắng). Cảm thức tâm linh trong thơ Hoàng Quang Thuận (Dương Kỳ Anh). Thiền vị trong Thi vân  Yên Tử  của Hoàng Quang Thuận (Trần Thị Thanh). Về Yên Tử đọc thơ Hoàng Quang Thuận (Đăng Lan). Cảnh vật trong cảm thức thiền tông (Phạm Quang Trung). Không gian “Thiền” trong Thi vân Yên Tử (TS. Hà Ngọc Hòa). Yên Tử qua thơ Hoàng Quang Thuận (Thu Phong). Chữ tâm trong Thi Vân Yên Tử (Mộc Lan). GS. Hoàng Quang Thuận: "Tiền nhân mượn bút tôi viết thơ " (Dương Tử Thành). Có một nhà thơ danh sơn Yên Tử (Trần Nhuận Minh). Thi vân Yên Tử của Hoàng Quang Thuận - Một chân dung thơ -  Phật tính hiền truyền (Hoàng Trung Hiếu). Tình yêu đất nước và chất thiền Thi Vân Yên Tử (Thế Trung). Thi vân Yên Tử của tác giả Hoàng Quang Thuận như một hiện tượng văn học (PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn).

Tuy nhiên, có điều đáng mừng là không phải ai cũng chạy theo phong trào ca tụng ấy, quả thật đã có những người đã tỏ vẻ hoài nghi thiên tài thơ thiền ấy, họ đã biết đặt những vấn đề:

- Thi vân Yên Tử “nhập đồng” hay “đạo” thơ? (SGGP Online). Trong đó nhà văn Võ Thị Xuân Hòa: “Hội Nhà văn Việt Nam sẽ làm rõ nghi án ‘đạo’ thơ”. Còn nhà phê bình Nguyễn Hòa: “Liệu nó có đúng là thơ không và có đúng với những gì mà ông Thuận nói là thơ của tiền nhân không, vì theo đánh giá của tôi, đó chỉ là văn bản thơ hạng xoàng!”

- “Thi vân Yên Tử” của Hoàng Quang Thuận có phải là thơ nhập đồng? của luật sư Nguyễn Minh Tâm. Trong đó, người viết đã rất trung thực phân tích và chứng minh rõ, thơ ấy không phải là thơ nhập đồng, cũng không phải tiền nhân mượn bút - mà chính Hoàng Quang Thuận đã lấy ý từ quyển sách “Chùa Yên Tử, lịch sử - truyền thuyết, di tích và danh thắng” của tác giả Trần Trương để “biên soạn lại thành thơ”.

- “Hiện tượng thơ nhập đồng” hay là trò sao chép, lừa đảo? của Mai An đăng ở báo Dân Việt, trong đó tác giả nói trong ba đêm mà sáng tác 141 (sic) bài thơ và dự giải Nobel phải chăng là “giấc mơ quá cỡ”? Rồi Mai An trích câu nói của nhà thơ Trần Trương, hội Nhà văn VN: “Đây là một hành động lừa đảo...”

- Dấu hiệu đạo văn của “nhà thơ nhập đồng” - tác giả Nguyễn Việt Chiến đăng trong tạp chí Văn học và Ngôn ngữ.

- “Hiện tượng thơ nhập đồng”: Sớm làm rõ “nghi án” đạo văn; và “Ai tiếp tay cho nhà thơ nhập đồng Hoàng Quang Thuận dự giải Nobel” - Lê Tâm thực hiện. Trong đó tác giả bảo có nhiều người muốn biết ai viết giấy giới thiệu? Và nổi bật ý kiến: “Dự giải Nobel là một điều khôi hài”.

- Và mới đây là bài “Cái lưỡi... đa nhân cách và những phát ngôn” của Kỳ Duyên đăng tại Báo Mới.com - trong đó tác giả sau khi phê phán khá nặng nề ... và viết lơ lửng “Xấu chàng, hổ... Tạp chí Nhà văn”, đã nói là ông Thuận phải trả giá đắt cho sự nông nổi của mình chỉ vì hai chữ lợi danh tai quái; ông muốn đạt tới “ngộ” nhưng có lẽ tục lụy còn quá nhiều, tham, sân si còn quá lớn nên “ngộ nhận” chăng?

Có lẽ liệt kê như thế cũng tạm đầy đủ.  


(xem tiếp phần 2)
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

.
(Tiếp phần 1)

Hoa tàn, mưa tạnh, non yên lặng...
(Về hiện tượng thơ Hoàng Quang Thuận)



2.Phần 2:


Đầu tiên, tôi xin góp ý một cách đúng đắn và khách quan rằng, cả hai tập thơ của Hoàng Quang Thuận là loại thờ tả cảnh, tự sự, cổ tích, sử tích, huyền thoại vào loại bình thường. Tôi nói là bình thường - chớ không dám nói thẳng thừng như nhà phê bình Nguyễn Hòa gọi là “hạng xoàng!” Đối với tôi, nếu “được gọi là thơ” thì thơ Quang Thuận chưa phải là “thơ hay” vì nó thiếu “chất thơ”, tức là thiếu vắng ngôn ngữ nghệ thuật và hình tượng nghệ thuật. “Chất thơ” thì nó không nằm nơi ý nghĩa bề mặt câu chữ của văn bản mà nó phải ở ngoài hoặc ở phía sau bề mặt câu chữ của văn bản. Cố gắng đọc vài chục bài thơ của ông, tôi đã thấy chán - vì nó “chẳng có thơ” và dĩ nhiên, đích thực là “chẳng có Thiền”! Tôi thấy đâu đó chỉ là sự lắp ghép ý tứ, câu chữ, lựa dáng, tìm vần... nhưng mà cũng chưa chỉnh, chưa “giỏi”  lắm!  Và ý nghĩa của nó chỉ có một, nó nằm “chết”, nằm “bất động” nơi bề mặt câu chữ của văn bản mà thôi. Ta hãy khảo sát một số bài:

1. “Cổ thụ vươn cao xòe tán rộng

Rừng già nóng lọt đốm hoa rơi

Dây leo chằng chịt vắt cành lá

Chìm rừng líu lót với hương trời”.

2. “Viên gạch Hoa Cúc đời nhà Trần

Phù điêu sư tử sứ hoa vân

Vẫn ba gốc đại ngày xưa ấy

Bao năm xa cách vẫn thấy gần”.

3.“ Từ bỏ ngôi vua để tu hành

Từ cái nhất thời, cái hữu danh.

Vĩnh hằng vô hạn, vua tìm đến

Yên Tử trường xuân hóa đất lành”.

4. “Vòng cung uốn lượn tựa mình rồng

Vươn mình thế núi hướng biển Đông

Ẩn sâu khúc lượn trong lòng đất

Đầu rồng ngoảnh lại hướng Thăng Long”.

5. “Dựng xây cung điện đế triều nghi.

Định đế xưng vương lập thành trì.

Đại Hoàng cổ Việt Trương Yên phủ.

Hào sâu núi hiểm bất khả tri”

Cả năm bài tứ tuyệt, nếu là tứ tuyệt nghiêm túc thời trung đại thì bài nào ở đây cũng thất niêm luật cả (những chữ in đậm, đổi trắc thành bằng, bằng thành trắc mới đúng); và ý nghĩa của nó chẳng khác gì thông tin của một văn bản điện tử, hiểu ngay, nắm bắt được ngay! Đây là loại “văn xuôi có vần!” Rất tầm thường! Mới tập làm thơ cũng làm được. Nếu ai đó nói là có tâm thì đúng vậy, nó chỉ có tâm! Nhưng ngay cái tâm ấy cũng chưa nắm bắt căn bản tư tưởng Phật học khi nói “vĩnh hằng và trường xuân” ở nơi bài 3 - vì “vĩnh hằng” là cõi của nước Chúa, còn “trường xuân” là cảnh giới luyện tinh thành khí để đạt “trường xuân bất lão” của Đạo gia! Còn về thơ tứ tuyêt như trên thì nhà phê bình Nguyên Hòa cười mỉm: “Dù tác giả làm nhiều bài thơ tứ tuyệt hoặc ghép hai bài tứ tuyệt thành một bài thất ngôn bát cú cho có dáng dấp Đường luật thì ngay cái việc cố gắng ép thơ vần cũng đã đưa lại ý tứ khôi hài...”

Đấy là chúng ta khảo sát về cái gọi là thơ thì thơ Quang Thuận chỉ là “văn xuôi có vần!”, chưa phải là thơ thứ thiệt! Còn về cái mà người ta gọi là “thơ Thiền” của Quang Thuận, thì hãy nghe nhà phê bình Nguyên Hòa nhắc nhở: “Xin chớ nghĩ hễ trong bài thơ có hình ảnh chùa chiền, non cao, bóng núi, cây đá, mây trời, trăng treo, tiếng hạc... là bài thơ có chất Thiền! Xin hãy hiểu rành rẽ về Thiền và thơ Thiền rồi hãy viết, kẻo lại rơi vào cảnh ngộ ‘vẽ rắn thêm chân’!” Nói vậy, rõ là ông Nguyên Hòa đã rất thận trọng “về Thiền và thơ Thiền”. Thận trọng là đúng. Tuy nhiên, nếu là tôi, là một tu sĩ có học Thiền, có tu Thiền và cả dạy Thiền, tôi sẽ mạo muội xin phép viết lại mệnh đề cuối như sau:“Xin hãy tu tập Thiền, chứng nghiệm Thiền, sống Thiền rồi hãy làm thơ Thiền, kẻo lại rơi vào cảnh ngộ ‘đầu thượng trước đầu, tuyết thượng gia sương’! (1)” Vì vậy, hai tập thơ của Quang Thuận viết về Yên Tử mà được mọi người gọi là thơ Thiền thì quả là hơi nóng vội, có cái gì đó thiếu chân xác, cần phải đính chính lại.

Tại sao tôi lại dám nói vậy? Vì thật sự là thơ Thiền thì phải được cảm hứng từ trực giác tâm linh của những Thiền sư đạt ngộ, của những hành giả đã từng miên mật công phu định tuệ (2) trên non cao, động thẳm, trong những tu viện xa vắng, tịch liêu. Các vị ấy đã nhảy qua hố thẳm phạm trù của lý-trí-thức-tri-nhị-nguyên-sai-biệt, đã giải quyết trọn vẹn “tử sinh đại sự”, đã cất tiếng cười lạnh giá cả sao Ngưu, sao Đẩu, đã cởi bỏ tất thảy mọi xiềng xích buộc ràng của bản ngã với những mặt nạ hư dối, đã trang bị cho mình con mắt thứ ba của “tuệ nhãn” nhìn xuyên thủng hư vô bị che chắn dập dờn bởi khói sương mê lầm, vọng huyễn. Cuộc đời các vị ấy là một chân dung mô phạm khả kính. Họ có đời sống giới luật nghiêm túc, có đạo hạnh tôn quý, có tuệ giác khinh linh siêu thoát. Họ sống thiền trong từng hơi thở, từng sát-na nên mới có thẩm quyền về thiền, nói về thiền, mới có thể “thở ra thơ thiền” được. Còn tác giả của những tập thơ Yên Tử này là ai? Một Phật tử hay đơn thuần chỉ là một người mộ Phật? Hoặc chỉ là một người kính yêu non thiêng Yên Tử? Là một con người bình thường có gia đình vợ con? Một cư sĩ trí thức hay một vị quan đang “đại ẩn” tại triều trung? Và nếu gồm tất thảy những con người ấy, với những “hành trạng” như thế thì người ta chỉ có thể làm thơ tức cảnh, tức tình, về tự sự, về cổ tích, về danh thắng hay về huyền thoại... nhưng thơ ấy không thể gọi là thơ thiền! Tôi nghe biết tác giả là một GSTS, một viện trưởng, một nhà khoa học; tuy nhiên, cho dẫu một trí thức uyên bác cũng không thể nào với tới thế giới tâm linh trực giác, là lãnh địa ở ngoài mọi kiến thức và trí năng? Có thể nào trí thức bác học hiện nay trên thế giới ai cũng có thể liễu giác, chứng nghiệm thiền, sống thiền trong một vài sát-na tư duy đốn ngộ và có thể làm được thơ thiền cả thảy? Điều này là bất khả. Điều này là vẽ lông cho rùa, chắp thừng cho thỏ.

Còn nữa. Còn một chuyện nữa. Như người ta nói, và chính tác giả cũng có nói là mình làm trong ba đêm liền tập “Thi vân Yên Tử” gồm 143 bài trong trạng thái như “nhập đồng’, do tiền nhân mượn bút nên khó lý giải được. Đầu tiên, xin được đính chính, là cái kiểu “nhập đồng, mượn bút” kia không phải là tinh thần của nhà Phật chánh tông, nó hơi “tà” rồi đấy! Có người lại suy luận, có lẽ do nhập định sâu mới làm thế được. Xin thưa, “nhập định sâu” (3) thật sự thì phải đóng hết cả sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý); trong trạng thái ấy, hành giả đâu có thể khởi tư duy mà làm thơ được?! Hàng ngàn người tu thiền định thứ thiệt họ biết rõ điều đó; nói chuyên môn một chút là phải xuống “cận hành định” mới khởi “tầm và tứ” tức là khởi ý niệm và suy nghĩ được! Riêng chuyện nhập thần, mượn bút thì có thể có - nhưng “tiền nhân” này là ai? Tiền nhân này sao lại có đọc quyển sách “ Chùa Yên Tử, lịch sử, truyền thuyết, di tích và danh thắng” của tác giả Trần Trương? Cứ dựa theo sách của người ta, đổi văn xuôi thành văn vần để biến ra cái gọi là thơ thiền? Tiền nhân này sao lại “mượn văn” của tác giả đang sống hiện nay một cách vô ngại thời gian như thế? Và nếu có thật chuyện đó thì tiền nhân này không phải là Phật, là thần, là Trần Nhân Tông, là các vị thiền sư, là các đại bút danh sĩ rồi! Tại sao? Vì Phật thần thì không có cái tâm xiêng xẹo, cong vênh như thế! Và nếu là các tác gia thời trung đại thì “đại bút” của các vị ấy đã rơi xuống “tiểu bút” rồi, thi hương cũng không đỗ đâu! Còn nếu là Trần Nhân Tông, Huyền Quang, các vị thiền sư giáng bút thì sao thơ quý ngài lại “xuống cấp” đến vậy, “tầm thường thơ” đến vậy, chẳng có tuệ, có thiền, có trao truyền mật chỉ tâm ấn gì cả?! Tiền nhân này là ai vậy? (4) Chúng ta phải tìm cho ra cái khuôn mặt của ông ta - để giải bớt cái oan khuất cho tất thảy thiền sư, danh sĩ thời Lý, Trần mà văn học sử thường xem như đấy là thời đại đỉnh cao của văn học, là cái “nôi” hàm tàng mọi giá trị mỹ học, thiền học cũng như tinh túy văn hóa bản sắc của cha ông. Tiền nhân nhập bút ấy là ai mà Nguyễn Hòa đã than: Nếu thực sự “tiền nhân mượn bút” của Hoàng Quang Thuận để “viết thơ” thì xem ra thơ của “tiền nhân” đã sa sút đến mức thê thảm... Với các bài thơ chưa đúng niêm luật ... mà được gọi là “nghệ thuật Đường thi trác việt” thì đúng là hết thuốc chữa!

Quả đúng là hết thuốc chữa!

Vì “trăm năm duyên kiếp” như thế này mà cũng là thiền sao:

“- Trăm năm duyên kiếp còn lưu lại

Lối cũ đường xưa ngập cỏ cây”.

Và đây cũng gọi là thơ, là thiền sao:

“- Ba tên kẻ cướp nhảy chặn đường

Vua Trần cho bạc lẫn phần cơm

Nhẹ nhàng thuyết giáo trừ tâm độc

Cả ba quỳ lạy hứa hoàn lương!”

Và đây nữa:

“- Hoa kinh thành của Đế vương

Mây bay phủ núi luỵ biên cương

Hoàng Long dậy sóng ngàn năm ngủ

Long Mã truy phong thượng đạo đường”.

Bài nào cũng thất niêm luật, không những không phải thơ, không phải thơ thiền mà còn không hiểu tác giá đưa thông tin “bí mật” gì ở nơi chỗ “lụy biên cương” và cái “thượng đạo đường”?

Vậy là quá đủ.

Xin chư vị thức giả thẩm định cái gọi là “tiền nhân nhập thần mượn bút” ấy cho!

Tôi không tu Thiền theo thiền phái Trúc Lâm, không phải là đệ tử, thân hữu, cũng không quen biết các ngài, các Sư, Ni ở trong tông môn đó. Tôi thuộc Theravāda, chỉ là một tu sĩ yêu thơ, có nghiên cứu thơ văn của Trúc Lâm tam tổ và các danh sĩ làm thơ có ảnh hưởng thiền thời Lý, Trần. Thơ, thơ thiền, thơ có tư tưởng thiền và thơ có liên hệ đến non thiêng Yên Tử của các vị ấy, vào thời trung đại ấy... tôi nghẹn chữ, không biết nóí sao. Tôi chỉ muốn ví von - dù biết ví von nào cũng khập khễnh - là nó như là hạt tuyết trắng trinh tuyền trên non cao. Nó là đóa hoa tinh khôi, diệu vợi u hương trên đầu núi. Mà bút khí, bút lực, bút trí, bút tâm của thế gian là bút của chợ triền, ở dưới này, thường không vói tới! Nó khác, nó rất khác, nó khác xa so với tất cả thơ mạo nhận là thơ thiền hiện nay. Tảng đá tịnh định, trầm mặc trong vườn thiền hôm kia cũng toát mồ hôi. Lau cỏ quê mùa dân dã, an nhiên sáng nay bên hiên chùa cũng run lẩy bẩy. Hiện tượng phẩm bình hơi quá bút về thơ thiền của Hoàng Quang Thuận làm cho “đá cỏ trong vườn thiền” cũng phải lên tiếng đính chính một vài chỗ cần thiết. Tuy nhiên, thật may mắn thay cho Phật giáo chúng ta, và cả cho những ai yêu non thiêng Yên Tử cùng cốt cách “cam lộ lưu phương (5)” của Hương Vân đầu-đà - là các nhà học giả nghiêm túc, các nhà nghiên cứu có đạo đức tri thức đã đồng loạt phản bác, phê phán nghiêm khắc, đã nhìn ra “chân tướng”, đã chỉ ra cái “bản lai diện mục” của cái trò chơi hơi “quá đà” kia rồi! Chỉ một chút xíu “quá đà” thôi, chớ không nên nói khá nặng lời như ai đó đã xem như là một hiện tượng vĩ cuồng!  

Để kết luận, tôi xin chép ra đây bài thất ngôn tứ tuyệt “Sơn phòng mạn hứng” có niêm, đối, vần, luật chỉnh chu của thiền sư thi sĩ Trần Nhân Tông:

“ Thị phi niệm trục triêu hoa lạc

Danh lợi, tâm tùy dạ vũ hàn

Hoa tận, vũ tình, sơn tịch tịch

Nhất thanh đề điểu, hựu xuân tàn”.

Tạm dịch:

“- Phải, trái niệm rơi hoa rạng sớm  

Lợi danh lòng lạnh mưa thâm đêm

Hoa tàn, mưa tạnh,  non yên lặng

Còn tiễn xuân tàn, một tiếng chim!”

Hy vọng rằng, những hiện tượng phù du như vậy rồi sẽ qua đi. Chuyện phải, chuyện trái nó rơi theo hoa buổi sớm rơi. Cái tâm về lợi danh nó lạnh ngắt giống như trận mưa lạnh ngắt đêm rồi! Và ngay cái rơi, cái lạnh ấy cũng không còn nữa, nó rụng, nó tạnh hết rồi, chỉ còn lại non yên lặng mà thôi. Và ở nơi cái “thực tại non yên lặng” ấy, một tiếng chim vừa hót lên...Cũng vậy, cái gì không phải thơ, không phải thiền thì nó sẽ rơi, sẽ rụng đi - nhưng sự an tĩnh và thanh khiết của hồn thơ, hồn thiền non thiêng Yên Tử sẽ còn mãi với thời gian. Mong vậy thay!

Am Mây Tía 20/8/2012

Minh Đức Triều Tâm Ảnh

-----------------------------------------------------------------------------------------
Chú thích:

(1) Trên cái đầu, chồng thêm cái đầu, trên tuyết lại phủ thêm sương - tức là ý niệm chồng thêm ý niệm, che lấp cái thực!

(2) Định (Samādhi), Tuệ (Vipassanā).

(3)Tối thiểu phải sơ thiền trong bốn tầng (jhāna) thiền.

(4)Theo nhà Phật, một người tu Phật có chánh kiến, không bao giờ tin việc nhập thần, giáng bút ấy là của thánh thần tiên Phật; nếu có, chúng chỉ là ma quỷ (ngạ quỷ, dạ-xoa, a-tu-la) mà thôi. Tin ba cái chuyện mê mê hoặc hoặc ấy là tà kiến. Vậy, nếu có, thì “tiền nhân mượn bút” ấy chỉ là ma quỷ.

(5) Móc ngọt chảy mùi thơm.
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 12 trang (116 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] ... ›Trang sau »Trang cuối