Trang trong tổng số 100 trang (1000 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [70] [71] [72] [73] [74] [75] [76] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Tuấn Khỉ

Nhà nước ra đời từ trong lòng dân

Bài đăng trên Đại Đoàn Kết 01/09/2012

Ngay sau Cách mạng tháng 8, chính quyền đã về tay ta, Đảng trở thành Đảng cầm quyền. Bác Hồ khẳng định Đảng cầm quyền là đầy tớ của dân. Đảng phải tạo mọi điều kiện để chỉ có nhân dân là chủ đất nước còn đảng viên tham gia bộ máy Nhà nước dù là Chủ tịch nước cũng là đầy tớ của dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã là hiện thân người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

http://daidoanket.vn/Pictures/bao%20tuan/_2012/245/2012_245_03_a1.jpg
Ảnh:HOÀNG LONG


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã là hiện thân người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Bác đòi hỏi lãnh đạo các cấp, người đứng đầu phải nêu gương, đứng đầu một bộ, một tỉnh, một xã, một cơ quan… đều phải nêu gương, Đảng cầm quyền trước hết phải làm được việc này. Nạn đói còn hoành hành, Bác Hồ đề nghị mọi người 10 ngày nhịn ăn một bữa, dành gạo cứu đói. Vừa ở chiến khu về sau cơn sốt rét nặng, Bác cũng nhịn ăn mặc dù tập thể quyết định Bác không phải nhịn. Các việc Bác nêu lên để yêu cầu đồng bào thực hiện, Chủ tịch nước đều thực hiện đến nơi đến chốn.

Trên thế giới chưa có Nhà nước nào đồng cam cộng khổ với dân như Nhà nước dân chủ cộng hòa, hàng chục năm, cán bộ, viên chức không có lương, bác sĩ, kỹ sư, bộ trưởng, chủ tịch, bí thư… hàng ngày đều tăng gia sản xuất để có thêm lương thực, thực phẩm. Năm năm đầu tiên chống Pháp (1945 – 1949) kháng chiến còn trong vòng vây của địch, chưa liên hệ được với các nước bè bạn, thiếu thốn đủ mọi thứ. Đi công tác đến bữa, gặp nhà dân nào vào cũng có ăn, "thêm đũa thêm bát” và dân ở đâu cũng nuôi cán bộ. Bệnh viện chưa có, ốm đau chỉ còn nhà dân, có nhà chỉ còn gạo, khoai, sắn nuôi được một, hai ngày rồi gọi hàng xóm xung quanh xúm đến nuôi. Đúng là dân nuôi những người đầy tớ của mình. Một nhà nước thực sự là đầy tớ trong suốt mấy chục năm, với sức chịu đựng mọi cực khổ ngoài sức tưởng tượng của mỗi con người. Bị thương, vết thương không nặng nhưng cũng không sống nổi vì chưa có thuốc cầm máu. Sốt rét, chỉ cần vài viên thuốc ký ninh là qua khỏi nhưng cũng không có. Cực khổ đến nỗi đồng chí Trần Việt Hoa phục vụ Bác Hồ kể lại có lúc Bác muốn ăn cháo, Bác lại hỏi còn cơm nguội có nấu cháo được không, Bác ngại cơm nguội để đến hôm sau không ăn thì phí. Vào lúc hết sức gian nan này xảy ra vụ tham nhũng Trần Dụ Châu. Tòa án binh tối cao xử hắn tử hình cùng với Cục phó Lê Sỹ Cửu. Một số cán bộ tưởng chưa thể phổ biến công khai vụ tham nhũng lớn khi đất nước còn vô cùng khó khăn, Trần Dụ Châu lại là Đại tá Cục trưởng Cục Quân nhu, lúc này chức vụ đại tá còn hiếm hoi trong quân đội. Bác Hồ chỉ thị thông tin rộng rãi cho đông đảo nhân dân biết. Báo Cứu Quốc đăng sáu kỳ trên 6 số báo hàng ngày, kèm theo xã luận, trình bày đầy đủ, chi tiết mọi mánh khóe, thủ đoạn tham ô, mọi trò ăn chơi xa hoa cùng diễn biến phiên tòa và thi hành án tử hình (chỉ có Trần Dụ Châu đền tội còn Cục phó Lê Sỹ Cửu ốm nặng nên vắng mặt tại pháp trường). Bài xã luận đầu đề "Nhân vụ án Trần Dụ Châu”, đăng số báo ngày 20-9-1950 có đoạn rất đáng chú ý, tới nay đã 62 năm vẫn nguyên vẹn tính thời sự nóng bỏng: "… Có người e ngại: chúng ta mở toang vụ án này, công khai vạch rõ những tội lỗi nhơ bẩn của Trần Dụ Châu và bè lũ có thể làm một số dân chúng chê trách hay kẻ địch bám vào đấy để nói xấu Chính quyền, Đoàn thể (1). Không! Chúng ta không sợ phê bình và tự phê bình những khuyết điểm của ta. Chúng ta khác bọn phản động và hơn hẳn chúng ở chỗ đó. Đây là sự khuyến khích nhân dân thẳng thắn phê bình những sai lầm của cán bộ, của chính quyền, đoàn thể.

Chúng ta phải thẳng tay vạch mặt và trừng trị những kẻ tham ô, hoang phí, những kẻ mưu sống phè phỡn trên mồ hôi nước mắt người khác để tiến tới xây dựng một nền tảng chính quyền nhân dân thật vững vàng.

Đây không phải là việc riêng của Chính phủ, của Đoàn thể mà đây là bổn phận của các tầng lớp đông đảo quần chúng nhân dân chúng ta”.

Qua vụ án Trần Dụ Châu thấy Đảng cầm quyền trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù khó khăn phức tạp, đến đâu cũng công khai, minh bạch với dân. Mọi lý do "địch biết sẽ bôi nhọ ta” hoặc "không vạch áo cho người xem lưng”, hoặc đòi "giải quyết nội bộ”, cốt để không cho dân biết đều chỉ là những cái cớ không lành mạnh, che dấu tà tâm, ác ý. Cuốn sách "Về Đảng Cộng sản Việt Nam – Hồ Chí Minh” tuyển chọn những trước tác của Bác Hồ về Đảng Cộng sản Việt Nam (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – 1993), có đoạn nói về Bác Hồ đối với Đảng cầm quyền, xin trích: "Suốt 24 năm đứng đầu Nhà nước, đứng đầu một Đảng cầm quyền, Bác Hồ đã giải quyết không biết bao nhiêu vấn đề lớn trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, văn hóa, xã hội, những vấn đề của kháng chiến và kiến quốc của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và một phần của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, nhưng vấn đề Đảng cầm quyền bao giờ cũng là vấn đề được Bác quan tâm nhiều nhất và có một sự chú ý đặc biệt” (trang 25).

Mỗi đảng viên dù giữ chức vụ gì trong bộ máy Nhà nước phải luôn luôn là đầy tớ trung thành và tận tụy của dân. Sự tín nhiệm của nhân dân với Đảng không phải bất di, bất dịch, sự tín nhiệm ấy không thể còn nguyên vẹn nếu Đảng không còn trong sạch vững mạnh. Ngày 2-8-1968, làm việc với Ban Tuyên huấn trung ương, khi nhắc đến chủ nghĩa cá nhân nảy nở, một số cán bộ có chức quyền chỉ lo thân, "đã có nhà lại còn đòi nhà đẹp hơn, đã có xe rồi lại còn đòi xe đẹp hơn”, Bác Hồ nói: "Một dân tộc, một đảng viên và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.

http://daidoanket.vn/Pictures/bao%20tuan/_2012/245/2012_245_03_a.jpg
Bác Hồ với bà con nông dân
Ảnh: TL


Sau Đại thắng mùa Xuân 1975, đất nước hoàn toàn được giải phóng. Lúc này kinh tế tư nhân không còn, giai cấp tư sản và đội ngũ doanh nhân cũng không còn. Một nền kinh tế chỉ còn thành phần nhà nước và tập thể. Cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp hoàn toàn ngược lòng dân nhưng dân không được góp ý kiến. Lãnh đạo xa dân, không chịu nghe dân, cũng không tin cả đại biểu dân bầu. Quốc hội họp, các đại biểu Quốc hội phát biểu tại hội trường phải viết ra giấy nộp Ban Thư ký để trên duyệt, chỉ được đọc những đoạn hợp với chủ trương chính sách của trên, không được có ý kiến ngược. Nền kinh tế kiệt quệ không chỉ đói mà hàng tiêu dùng cũng không còn, là sức ép buộc phải đổi mới khi đất nước đang bị dồn đến bước đường cùng. Đổi mới đã thay đổi bộ mặt đất nước rất nhanh, nhìn vào đất nước thấy đời sống các tầng lớp nhân dân đều được cải thiện nhưng nhìn ra một số nước cùng khu vực thấy tốc độ phát triển của ta còn quá chậm, ta vẫn đang tụt hậu. Ta chậm vì những yếu kém từ thời tập trung, bao cấp khắc phục chưa được bao nhiêu, kỷ cương phép nước rất lỏng lẻo đi đôi với đặc quyền đặc lợi quá nhiều. Không còn phê bình và tự phê bình là đặc quyền đặc lợi tệ hại nhất, lãnh đạo bên trên gần như đứng trên mọi sự giám sát của Đảng và Nhà nước. Đầu năm 1990, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã vạch rõ việc này: "Giải quyết nội bộ xuất hiện ban đầu chỉ ở cơ quan lãnh đạo bên trên rồi vì dột từ nóc nên nhanh chóng trở thành phổ biến, xuống đến cơ quan lãnh đạo bên dưới. "Vùng cấm” tràn lan đâu cũng có "vùng cấm” không được phê bình, đụng chạm, trong Đảng đương nhiên xuất hiện những "siêu đảng viên” hàng chục năm không phải tự phê bình, tự kiểm điểm nhưng khen ngợi tâng bốc thì quá nhiều, quá đáng cùng với tuyên dương, đề bạt”.

Nhiều cán bộ lãnh đạo chẳng cần học tập, nâng cao năng lực lãnh đạo, trau dồi đạo đức mà vẫn bình chân như vại, giữ hết chức vụ chủ chốt này đến chức vụ chủ chốt khác, chỉ thấy có lên không có xuống, một số người năng lực lãnh đạo quản lý và tư cách đạo đức rất hạn chế lại giữ những mấy chức vụ quan trọng. Trong một số bộ, ngành và cơ quan, ở cả Trung ương và tỉnh, thành phố, cán bộ biết lãnh đạo cấp trên của mình chỉ còn là lực cản, đã đứng ngoài tự kiểm điểm, phê bình lại rất ham nghe nịnh hót, "bốc thơm”, đất nước ngày càng tụt hậu đâu chỉ tại thiên tai, địch họa mà nguyên nhân còn từ chủ quan bên trên nhưng không ai dám nói thẳng ra, chỉ trao đổi, than thở với nhau. Phát biểu trên đây của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh lại được đăng báo làm cho nhiều người hy vọng, phải đánh động như vậy thì những "siêu đảng viên” mới giật mình và lãnh đạo Đảng mới thấy phải lập lại trật tự, kỷ cương từ bên trên. Dư luận rất hài lòng khi Tổng Bí thư cho biết Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ban Chấp hành Trung ương sẽ tự phê bình và phê bình. Dân chủ và công khai được đề cao, coi như ánh sáng soi rọi vào mọi góc tối, tham nhũng và mọi tiêu cực không thể ẩn nấp, trụ bám. Trung ương Đảng sẽ họp công khai, chuyển biến bước đầu là một số tổng biên tập được dự Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (khóa VI) giữa năm 1989, đã có hứa hẹn phóng viên sẽ được đến hành nghề tại Hội nghị Trung ương.

Tình hình biến chuyển được một thời gian rồi mấy năm sau lại như cũ. Phê bình và tự phê bình vắng hẳn, rất ít thấy nhắc đến. Các "vùng cấm” chẳng giảm được là bao lại thêm những "vòng khép kín” của các bộ và UBND tỉnh, thành phố, biến chứng đáng sợ của cơ chế bộ chủ quản và cấp hành chính chủ quản, đã quản lý Nhà nước lại còn quản lý các doanh nghiệp nhà nước, vừa đá bóng vừa thổi còi. Trong mỗi "vòng khép kín” là giang sơn riêng không ai có thể giám sát, một thứ siêu quyền lực sản sinh ra những tỷ tỷ phú có chức quyền. Càng hiểu rõ tại sao tham nhũng càng tràn lan, cán bộ có chức quyền giàu có khác thường nhiều hơn hẳn trước sống xa hoa, đế vương bất chấp dư luận vì chúng đinh ninh có vỏ bọc kiên cố, chúng lại có chức có quyền, câu kết với nhau thành thế lực để che chắn cho nhau. 37 năm độc lập và thống nhất, chỉ còn ta với ta, thuận lợi gấp trăm lần chống ngoại xâm nhưng chống nội xâm không sao thắng lợi, nội xâm không những ngày càng mạnh và tới hiện nay đã thực sự là mối đe dọa đến độc lập và tự do của Tổ quốc. Cũng là đảng cầm quyền nhưng sao thời đánh ngoại xâm phép nước nghiêm như thế, còn nay đánh nội xâm pháp luật, kỷ luật quá lỏng lẻo, gây tổn thất hàng trăm tỷ đồng, hàng ngàn tỷ và có vụ mấy chục ngàn tỷ cũng chẳng thấy cá nhân nào chịu trách nhiệm. Nhà nước ra đời từ trong lòng dân, dân nhịn ăn, nhịn mặc nuôi Nhà nước lúc còn hàn vi, nay dân đóng thuế, Nhà nước giữ tiền nhưng để nội xâm gây tổn thất quá nhiều mồ hôi công sức của dân, dân xót xa lắm.

Trên thế giới, nhiều nước có đảng cầm quyền, mỗi đảng đều tìm mọi cách giữ vững uy tín với dân, tranh thủ sự ủng hộ của dân, khá giống nhau ở chỗ rất tích cực bảo vệ tiền dân đóng thuế, chỉ cần gây tổn thất cho ngân sách nhà nước trên dưới 1.000 đôla Mỹ là bộ trưởng đã bị cách chức. Singapore và Thụy Điển là hai nước chống tham nhũng nổi tiếng thế giới.

Bà M. Sahlin đã được chuẩn bị thay ông Y. Carisson vào chức lãnh tụ Đảng xã hội – dân chủ và là đảng cầm quyền nên đương nhiên bà sẽ là Thủ tướng Thụy Điển. Báo chí phát hiện bà đã sử dụng thẻ tín dụng Euro-card (chỉ dùng để thanh toán những chi phí liên quan đến công vụ) để thanh toán chi phí cho cá nhân như mua quần áo, trả tiền thuê xe và thuê phòng ngủ khi bà đi nghỉ hè, tất cả thành tiền là 8000 đôla Mỹ. Bộ phận kế toán nhắc nhở, bà đã thanh toán ngay và thanh minh đã quên và sơ suất. Mặc dù bà đã thanh toán ngay món tiền nhưng tiêu chuẩn đạo đức chính trị, đặc biệt đối với đảng viên đảng cầm quyền buộc bà phải từ chức. Chức vụ lãnh tụ đảng đã có đảng viên khác đang là bộ trưởng tài chính thay thế.

Bộ trưởng môi trường phát triển Singapore Hoàng Tuấn Văn nhận của một nhà buôn người Indonesia quà biếu 7 vé máy bay để đưa người nhà đi du lịch. Sau khi bị phát hiện, Bộ trưởng không những bị cách chức mà còn phải ra tòa lĩnh án tù 4 năm. Trịnh Chương Viễn, Bộ trưởng bộ Phát triển và Xây dựng, nhân vật số hai có công rất lớn xây dựng Singapore, chỉ sau Lý Quang Diệu. Ông bị phát hiện nhận hối lộ hai lần. Vẫn tưởng công lao rất lớn sẽ được tha thứ nhưng Nhà nước Singapore đã lập tức ra lệnh đình chỉ công tác, chuẩn bị đưa ông ra tòa. Được hỏi tại sao mấy bộ trưởng của Singapore lại bị xử nghiêm đến thế, Lý Quang Diệu trả lời: "Tham nhũng hư hại sẽ làm suy đồi đảng chấp chính (đảng cầm quyền) của chúng ta, nếu không trừng trị nghiêm khắc sẽ làm cho đảng sụp đổ”.

Thụy Điển và Singapore là hai nước có thu nhập bình quân đầu người mỗi năm vào hàng đầu thế giới, thành công của họ là nhờ có đảng cầm quyền vững mạnh, dựa vào sự tín nhiệm của nhân dân, thỉnh thoảng lại có thăm dò dư luận xem đảng có còn xứng đáng cầm quyền không, các quan chức cấp cao của Đảng cầm quyền dù giữ chức vụ gì, phạm sai lầm và tỏ ra mất lòng dân đều bị trừng trị thích đáng và thay thế ngay.

Thái Duy

(1) Lúc này Đảng đã tự giải tán nên công khai gọi là Đoàn thể
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Tuấn Khỉ

Những ngày cuối năm, tìm thăm người dựng Lễ đài Tuyên ngôn Độc lập

Bài đăng trên talawas 2/9/2005

Phùng Quán
 
Dưới đầu đề “Những ngày cuối năm, tìm thăm người dựng Lễ đài Tuyên ngôn Độc lập”, bài này được nhà văn Phùng Quán viết cách đây đúng một năm. Tác giả đã gửi ngay cho báo Văn Nghệ, nhưng cho đến đến nay vẫn chưa thấy đăng.

Diễn Đàn công bố tài liệu này, trước hết vì giá trị văn học của một bài kí thống thiết. Đó cũng là một chứng từ lịch sử quan trọng về ngày Tuyên ngôn Độc Lập 2.9.1945.

Tài liệu này còn mang một ý nghĩa sâu sắc: Nguyễn Hữu Đang (sinh năm 1912) được coi là người đứng đầu phong trào Nhân văn-Giai phẩm, còn Phùng Quán là thành viên trẻ tuổi nhất của phong trào này. Cả hai đã kiên quyết không chịu “đấm ngực nhận tội” và càng không chịu tố cáo người khác. Chính vì vậy mà hai ông đã bị đàn áp nặng nề. Đặc biệt ông Nguyễn Hữu Đang đã bị biệt giam 15 năm ở Hà Giang (từ năm 1958 đến 1973 – có lẽ ông là một trong vài ba người trên trái đất này hồi đó không biết có cuộc chiến tranh Việt-Mĩ), rồi bị đưa về quê nhà Thái Bình an trí gần 20 năm trời.

Từ đầu năm 1993, ông đã trở về sống ở Hà Nội, được trả lương hưu cán bộ bậc 5, nhưng vẫn chưa có nhà ở. Bạn bè ông đang yêu cầu chính quyền cấp nhà, bằng không họ sẽ vận động đồng bào và kiều bào đóng góp mua nhà cho ông.

Diễn Đàn (số 25, tháng 12.1993)


Dạ thưa Giáo sư Tiến sĩ Đình Quang, Thứ trưởng Bộ văn hoá Thông tin, cùng độc giả báo Văn Nghệ,

Mới đây tôi được đọc bài điếu văn đầy trang trọng và xúc động của Giáo sư đăng trên tuần báo Văn Nghệ, đọc tại lễ truy điệu của nhà điện ảnh lão thành Phạm Văn Khoa. Trong bài điếu văn có một chi tiết về thành tích hoạt động của nhà điện ảnh quá cố mà tôi đặc biệt quan tâm: “Rồi lại chính anh (Phạm Văn Khoa) dựng bục, kết hoa cho Lễ đài Tuyên ngôn Độc lập, chỉ trong một ngày đêm vội vã”.

Thưa Giáo sư Tiến sĩ Đình Quang, qua lời điếu văn tôi có cảm tưởng việc dựng Lễ đài Độc lập 2.9.1945 gần giống việc dựng một cái chòi thông tin hoặc một cái sân khấu ngoài trời....

Nhân sự việc này tôi muốn kể hầu Giáo sư và độc giả tuần báo Văn Nghệ một câu chuyện, mục đích là để mua vui vào dịp đầu xuân năm Dậu, năm trùng phùng với năm xảy ra sự kiện mà tôi sắp kể sau đây, năm Ất Dậu 1945.

Học theo cách nói của thi hào Nguyễn Du, “mua vui cũng được một vài trống canh”.


*

Tôi là người viết văn nhưng lại đặc biệt say mê nghệ thuật kiến trúc. Đầu năm 1990, Đại hội kiến trúc sư toàn quốc, tôi có gửi một bức điện 300 chữ, chào mừng Đại hội. Mở đầu bức điện văn, tôi viết: “Nếu đất nước xây dựng một Đền đài Nghệ thuật, tôi xin được làm thủ từ. Ngày Lễ hội, tôi xin được trải chiếu để văn nghệ sĩ ngồi. Chiếu một tôi dành riêng cho các kiến trúc sư. Vì các anh chị là những người trước tiên đem lại vinh quang, niềm tự hào hoặc ô nhục cho xứ sở, bằng chính các tác phẩm kiến trúc của mình...”. (Ở nhà tôi, ngoài những) [1] Kim tự tháp, Vạn lí trường thành, Đền Ăngco, Chùa Vàng Miến Điện, Cố cung, Tháp Eiffel, Khải Hoàn Môn... tôi có chừng vài chục tấm hình cắt ra từ các báo như Nhân Dân, Quân Đội, Lao Động, Hà Nội Mới... chụp cảnh Lễ đài Độc lập với tổng thể vườn hoa Ba Đình trong ngày Mồng hai tháng Chín năm Một nghìn chín trăm bốn lăm. Mỗi lần ngắm nhìn cái công trình kiến trúc mỏng mảnh được xây dựng bằng gỗ, ván, đinh, vải; được thiết kế và thi công trong vòng 48 giờ - nếu chậm lại một giờ là hỏng - rồi sau đó biến mất khỏi mặt đất như một lâu đài trong cổ tích, cặp mắt mờ đục của người lính già tôi bao giờ cũng cay lệ. Lòng tôi dâng trào biết bao niềm cảm xúc và suy tưởng miên man ... về Tổ quốc và Nhân dân, về Cách mạng và Khởi nghĩa, về máu xương của lớp lớp anh hùng hào kiệt đã thấm đẫm giang sơn kể từ khi trên mặt đất xứ sở Việt Nam xuất hiện công trình kiến trúc mỏng manh này. Nó biến khỏi mặt đất, nhưng tầm vóc, hình dáng cùng với tổng chể kiến trúc của nó, đã tạc khắc đời đời vào kí ức của cả dân tộc...

Ba Đình nắng thu vàng rực rỡ, một biển người vừa bước từ đêm dài trăm năm nô lệ ra bình minh Độc lập Tự do, cờ hoa trong tay và câu hát trên môi... Người Hiệp sĩ vĩ đại của Nhân dân và hai triệu người chết đói, bước vào tuổi năm mươi lăm, râu đen, mắt sáng, lễ phục kaki... đứng trên lễ đài, mở đầu bản “Tuyên ngôn Độc lập” bất hủ: “Mọi người sinh ra đều bình đẳng...”

Ai có thể tái tạo công trình kiến trúc Lễ đài Độc lập cùng với tổng thể kì vĩ đó? Không một ai! Kể cả thánh thần... Theo ngu ý của tôi, Lễ đài Độc lập là cái cột mốc giữa đêm dài trăm năm nô lệ và bình minh của Độc lập Tự do của cả dân tộc. Kể từ khi trên mặt cỏ nắng Ba Đình mọc lên cái cột mốc này, số phận của cả dân tộc đã thay đổi, và số phận nhỏ bé, hèn mọn của cả thằng tôi cũng đã thay đổi. Từ một đứa trẻ chăn trâu mù chữ (... tôi đã trở thành) một nhà văn... Cũng từ cái mốc kiến trúc mỏng manh này, cả dân tộc đã xuất phát, bước vào cuộc trường chinh sáng láng nhất, lâu dài nhất và dữ dội nhất của thế kỉ, với gánh nặng lịch sử trên vai: “Ta vì ta ba chục triệu người/ Cũng vì ba ngàn triệu trên đời” [2] .

Ngắm nhìn một công trình kiến trúc như vậy, những người lính già dãi dầu chiến trận chúng tôi, làm sao không ứa lệ tự hào?

*

Vậy ai là tác giả cụ thể công trình kiến trúc Lễ đài Độc lập? Từ mấy chục năm nay, tôi luôn bị thôi thúc bởi niềm mong ước tìm hiểu cho ra. Nhưng cái khó bó cái khôn, và trong điều kiện và hoàn cảnh trắc trở của đời mình, tôi không sao thực hiện nổi niềm mong ước đó.

Thế rồi cách đây ba năm, tôi được một người bạn tặng tôi những tư liệu có liên quan đến sự kiện lịch sử mồng 2 tháng 9.1945 anh vừa tìm thấy trong Thư viện Quốc gia, Thư viện Bảo tàng Lịch sử, Viện Sử học, Viện Khoa học Xã hội Việt nam, và kho Lưu trữ Quốc gia. Trong số những bản sao chụp, có mấy tư liệu tôi đặc biệt chú ý:

Thư của Bộ tuyên truyền có tiêu đề VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ đề ngày 31.8.1945 gửi Thị trưởng Hà nội, về việc tổ chức Ngày Độc lập (Đây là bản chính được đánh máy bằng giấy than đen trên giấy trắng, khổ rộng 130 mm X 210 mm, đóng dấu tròn với dòng chữ “Ngày Độc lập” và C.P.C.H.D.C. vòng quanh con dấu, một ngôi sao năm cánh ở giữa, nổi lên dòng chữ BAN TỔ CHỨC). Nội dung thư:

"Kính gửi ông Thị trưởng Hà Nội,

Bộ Tuyên truyền của Chính phủ Lâm thời sẽ tổ chức ngày 2.9.1945 một “Ngày Độc lập”.

Muốn cho ngày ấy có một tính cách thiêng liêng, Ban tổ chức chúng tôi yêu cầu Ngài hạ lệnh cho các chùa chiền, nhà thờ cho mở cửa, quét tước sạch sẽ và đốt trầm hương suốt ngày hôm ấy để mừng Ngày Độc lập.

Kính thư,
Nguyễn Hữu Đang"

Một thư khác của Ban Tổ chức “Ngày Độc lập” thuộc Bộ Thông tin và Tuyên truyền, đề ngày 31.8.1945. Hình thức và con dấu như trên. Nội dung thư:

"Kính gửi ông Thị trưởng Hà Nội,

Nhân “Ngày Độc lập”, chúng tôi yêu cầu Ngài cho treo cờ ở vườn hoa Ba Đình và hai bên những phố lân cận.

Còn về lễ chào Quốc kỳ, chúng tôi nhờ Ngài cho sửa soạn cho chúng tôi một chiếc cột cao 12 thước tây đủ cả giây và bánh xe (poulie); sẽ có chỉ thị về chỗ dựng cột cho phu toà Thị chính.

Kính thư,
Nguyễn Hữu Đang"

Một thư khác, hình thức, tiêu đề và con dấu giống hai bức thư trên, với nội dung:

"Kính gửi ông Thị trưởng Hà Nội,

Muốn cho Ngày Độc lập tổ chức vào ngày 2.9.1945 tới đây được hoàn hảo, chúng tôi yêu cầu Ngài thông báo ngay cho các Phố trưởng để các ông ấy báo tin cho các nhà trong khu vực mình biết rằng Cụ nào trong nam giới hay nữ giới muốn đi dự lễ ấy sẽ đến họp ở Hội quán Khai trí hồi 13 giờ trước khi đi lên vườn hoa sau Sở tài chính.

Kính thư,
Nguyễn Hữu Đang"

Sau khi đọc kỹ những tư liệu trên, tôi suy luận: ông Nguyễn Hữu Đang là Trưởng ban tổ chức Ngày Độc lập, vậy chắc ông phải biết ai là tác giả công trình kiến trúc Lễ đài. Cần phải tìm gặp ông để hỏi cho ra.


Còn tiếp...
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Tuấn Khỉ

Tiếp theo...

Những ngày cuối năm, tìm thăm người dựng Lễ đài Tuyên ngôn Độc lập

Bài đăng trên talawas 2/9/2005

Phùng Quán

Anh Nguyễn Hữu Đang thì tôi được biết mặt từ mấy chục năm trước, nhưng rất ít khi được chuyện trò với anh. Mỗi lần tôi được anh hỏi chuyện, tôi bối rối, sướng mê nguời, đầu không khiến mà chân cứ rụt về tư thế đứng nghiêm, như ngày còn làm trinh sát mỗi lần được Chính uỷ Sư đoàn hỏi chuyện. Tôi nghĩ bụng: Tôi là cái thá gì mà được một người như Nguyễn Hữu Đang hỏi chuyện? Nguyễn Hữu Đang, người tham gia hoạt động cách mạng từ khi tôi chưa đẻ; nhà hoạt động báo chí công khai của Đảng cùng thời với Trường Chinh, Trần Huy Liệu; một trong những người tổ chức và lãnh đạo chủ chốt của Hội Truyền bá Quốc ngữ cùng thời với Phan Thanh, cụ Nguyễn Văn Tố. Một trong những người sáng lập và tổ chức Hội Văn hoá Cứu quốc cùng với Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Đình Thi. Và cuối cùng là Trưởng ban Tổ chức ngày Đại lễ của Đất nước: 2-9-1945.

Cách đây khoảng mười lăm năm, anh từ cao nguyên Hà Giang trở về, tá túc tại quê nhà. Hàng năm vào dịp giáp Tết, lại thấy anh đáo lên Hà Nội trên chiếc xe đạp thiếu nhi Liên Xô (cũ). Anh mang đến cho mấy bạn cũ mỗi người một cân gạo nếp. Một lần tôi cũng được anh cho một cân. Tôi cảm động và ngạc nhiên hỏi anh: “Anh kiếm đâu ra gạo nếp mà cho chúng em thế?”. Anh cười: “Mình sống ở nông thôn cũng phong lưu ra phết. Không những có gạo nếp biếu bạn, lại còn có cả thóc và rơm cho nông dân vay”. - “Hiện nay anh đang làm gì ở dưới đó?”. “Mình nghiên cứu Lão Trang và dịch lại cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản Liên xô qua bản tiếng Pháp. Đối chiếu thấy bản dịch đã in sai nhiều quá” [3] .

Hai năm trở lại đây không thấy anh lên Hà Nội nữa. Mấy anh em quen cũ chúng tôi hỏi nhau: “Không biết anh Đang có gặp chuyện gì trắc trở dưới đó không?”

Nỗi lo lắng này thường xuyên ám ảnh tôi. Nhân thể tôi muốn tìm hiểu về công trình Lễ đài Độc lập, năm đó tôi nhất quyết phải về thăm anh, mặc dầu đã gần giáp Tết. Tôi nói khó với vợ: “Em bớt cho anh một phần lương hưu tháng này; lấy tiền tàu xe, ăn đường, về Thái Bình tìm thăm anh Đang...” “Nhưng tết nhất đến nơi rồi, chờ ra giêng anh đi có được không?”. “Anh bỗng nhiên thấy nóng ruột quá... đợi đến ra giêng e chậm mất. Anh Đang đã gần cái tuổi tám mươi, mà lại một thân một mình...”. “Anh có biết địa chỉ của anh Đang không?”. “Anh chỉ biết anh ấy ở Thái Bình, địa chỉ cụ thể thì không biết”. “Cả cái tỉnh Thái Bình rộng mênh mông với hơn hai triệu dân, không có địa chỉ cụ thể làm sao anh tìm được?”. “Trời đất! Một người như anh Nguyễn Hữu Đang thì anh tin rằng về dưới đó hỏi đứa con nít nó cũng biết”. Vợ tôi đành trao cho tôi nửa số tiền lương hưu tháng cuối năm vừa lĩnh, với vẻ mặt nhẫn nhịn của người vợ phải trao cả một nửa sản nghiệp cho chồng tiêu hoang vào một việc không đâu! Tôi vội nhét mấy tờ giấy bạc vào túi, nhảy lên xe đạp, cắm đầu đạp thẳng ra ga vì sợ vợ thay đổi ý kiến.

Vừa đi tàu, vừa ô-tô, xe đạp... sáng 26 Tết, tôi có mặt tại thị xã Thái Bình. Để đỡ bớt thì giờ tìm kiếm, tôi hỏi đường đến Sở văn hoá và Hội văn nghệ tỉnh, hỏi địa chỉ của anh. Tôi thực sự ngạc nhiên khi thấy nhiều anh chị em cán bộ ở hai cơ quan này không biết Nguyễn Hữu Đang là ai. Có vài người biết nhưng lại rất lơ mơ: “Hình như ông ta ở Quỳnh Phụ, Kiến Xương hay Tiền Hải gì đó...”. Ở Hội văn nghệ tỉnh, tôi làm quen với một nhà thơ trẻ. Khi biết rõ ý định của tôi, anh hăng hái nói: “Cháu sẽ đưa chú ra cái quán thịt chó, ở đó thường có mấy anh cán bộ về hưu, (chắc sẽ hỏi ra”. Đến quán thịt chó, tôi đành móc) số tiền còm cõi trong túi, gọi một đĩa thịt chó luộc và hai chén rượu cho phải phép. Đợi chừng nửa tiếng, có một người đứng tuổi để chiếc xe cúp trước cửa, đi vào quán. Nhà thơ trẻ bật dậy nói với tôi: “Ông này ở cơ quan an ninh tỉnh, hỏi chắc biết”. Tôi vội níu tay anh lại, dặn nhỏ: “Cậu đừng giới thiệu mình là ai, sẽ rách việc”. “Biết rồi, biết rồi, chú không phải dặn”. Anh bạn trẻ đi đến gặp anh ta, nói cái gì đó, và chỉ tay về phía tôi. Anh cán bộ an ninh tươi cười bắt tay tôi, ngồi đối diện và niềm nở hỏi: “Xin lỗi cụ, năm nay cụ hưởng thọ bao nhiêu tuổi ạ?”. Tôi đoán chắc anh ta thấy tôi ăn vận nhếch nhác – áo quần bà ba nâu, chân dép lốp – râu tóc bạc trắng, nên hỏi vậy. Tôi liền nói phứa lên: “Cám ơn đồng chí – tôi cười – cũng thất thập cổ lai hi [4] rồi đồng chí ạ”. “Trước cụ công tác ở đâu ạ?”. “Tôi làm thường trực cho một cơ quan thương nghiệp trên Hà Nội... về hưu đã gần chục năm rồi”. “Cụ là thế nào với ông Nguyễn Hữu Đang ạ?”. “Tôi có quen biết gì ông ta đâu. Thậm chí cũng chưa biết mặt. Chẳng là ở tổ hưu của tôi có một cụ nghe đâu hồi bí mật cùng hoạt động với ông ta. Biết tin tôi về thăm đứa cháu họ công tác giáo viên ở Quỳnh Côi, ông cụ gửi tôi mười ngàn bạc để biếu ông ấy, mà giao hẹn phải đưa tận tay. Tôi tưởng ông ấy ở thị xã, hỏi loanh quanh mãi không ai biết...”. Anh cán bộ cười: “Ông ấy đâu có ở thị xã. Hiện ông ấy đang ở thôn Trà Vỵ, xã Vũ Công, huyện Kiến Xương... cách đây gần hai chục cây số. Ngược gió này mà cụ đạp xe về đó cũng vất vả đấy...”. Thấy tôi chăm chú lắng nghe, anh cán bộ trở nên cởi mở: “Nói để cụ biết, trước kia cái ông Đang ấy cũng là người hoạt động cách mạng có tên tuổi... Nhưng rồi ông ta giở chứng, làm báo làm văn chống đối Đảng và Nhà nước, bị xử phạt 15 năm tù ngồi, đưa lên giam trên trại tù Hà Giang. Mãn hạn tù, ông ta xin về cư trú tại quê quán. Tuy vậy (cách đây mấy năm ông Đang này tự tiện đi) sang Nam Định không có giấy đi đường, đến nhà một đối tượng mà công an đang theo dõi. Công an hai tỉnh liền phối hợp, hỏi giấy tờ đi đường của ông ta, rồi bắt giam giữ bốn tháng ở nhà lao hai tỉnh để cảnh cáo, và tổ chức khám nhà. Sau đó thả cho về...”. Tôi tỏ ý sợ hãi gãi đầu gãi tai: “Chà... biết rắc rối thế này thì tôi chẳng gặp ông ấy nữa... đem tiền về trả lại thôi...”. Anh cán bộ xuê xoa: “Không sao đâu cụ ạ, chính sách của ta bây giờ là đổi mới tư duy. Nghe đâu trên cũng đang sửa soạn cho ông ấy được hưởng lương hưu. Nếu cụ muốn về thăm ông ấy, cứ việc về. Tôi sẽ chỉ đường cho cụ”. Anh cán bộ chấm ngón tay vào li rượu, vẽ lên mặt bàn, chỉ vẽ cho tôi rất cặn kẽ con đường từ thị xã về chỗ anh Đang tá túc. Tôi đứng lên rối rít cảm ơn anh...

*

Con đường đá mười mấy cây số chi chít ổ gà. Gió cuối đông buốt như kim châm táp thẳng vào mặt. Nhưng vừa đạp xe tôi vừa nghĩ ngợi miên man về sự thăng trầm của những kiếp người tình nguyện dấn thân vì nghĩa lớn, nên con đường cũng như bớt xa... Đến chỗ ngã ba rẽ vào trường phổ thông cấp I, II xã Vũ Công – Nơi anh Đang tá túc – tôi vào cái quán bên đường uống li rượu cho ấm bụng. Ông cụ chủ quán khi biết tôi từ Hà Nội về tìm thăm anh Đang, rót rượu tràn li và nói: “Ông ấy thỉnh thoảng vẫn ngang qua đấy, tôi đều mời vào uống nước. Ông ấy tằn tiện khét tiếng cái xã Vũ Công này. Mới cách đây dăm hôm, ông ấy đèo sau xe cái rỏ tre ràng buộc rất kỹ. Ông ấy kể với tôi tối qua bắt được con rắn gì dữ lắm, phun phè phè bò vào nhà mình. Định làm thịt ăn nhưng tiếc, chở lên chợ bán cho một tay buôn rắn độc, kiếm lấy mấy nghìn mua mấy lạng mỡ lá...”. Tôi bật phì cười: “Ông ấy bây giờ lại thêm cái tài bắt rắn độc, mà mất công đạp xe mini những mười mấy cây số để đổi lấy mấy lạng mỡ lá... Vui thật! Tôi có người bạn làm thơ tên là Tuân Nguyễn, chết lâu rồi, làm câu thơ nghe thật vô nghĩa, nhưng cứ bất chợt hiện ra trong trí nhớ tôi: Cuộc đời vui quá không buồn được!”. Ông chủ quán rót thêm li rượu nữa, giọng hào hiệp: “Li này tôi đãi cụ!... Mà khổ, ông ấy có bán được đâu. Chiều tối ông ấy đạp xe về phàn nàn: nó không chịu mua, nó bảo loại rắn này không nằm trong bộ tam xà!”. Tôi cười ngất.

Anh Đang ở gian đầu hồi cái nhà bếp của khu tập thể giáo viên, trước mặt là ao cá Bác Hồ của xã. Đứng bên kia bờ ao, một cô giáo chỉ cho tôi: “Bác ấy đang ngồi ở bậc cầu ao kia kìa! Đang cọ rửa cái gì mà chăm chú thế không biết...”. Tôi dắt xe đạp qua sân trường, vòng ra sát sau lưng anh. Anh đang dùng nắm rơm cọ rửa những viên gạch vỡ đôi, xếp thành chồng cao cạnh chỗ ngồi. Tôi đứng lặng nhìn anh. Đầu anh đội cái mũ cối méo mó, khoác cái ruột áo bông thủng be bét, quần lao động màu cháo lòng, hai ống chân ôm vòng hai dây cao su đen nom như vòng cùm sắt; chắc hẳn để nhét hai ống quần vào đó chống rét, lưng anh khòng hình chữ C viết nghiêng... Tôi chợt nhớ cách đây rất lâu, tôi được nghe những người cùng thời với anh kể. Hồi Mặt trận Bình dân, Nguyễn Hữu Đang là cán bộ Đảng được cử ra hoạt động công khai, ăn vận sang trọng như công tử loại một của Hà thành, thắt cà vạt đỏ chói, đi khắp Trung Nam Bắc diễn thuyết, oai phong, hùng biện, tuyên truyền cách mạng... Mỗi lần cách mạng cần tiền để hoạt động, Nguyễn Hữu Đang có thể đến bất kì một nhà tư sản Hà Nội nào giàu có, vay vàng, tiền. Mà những người này trao vàng, tiền cho anh đều không đòi hỏi một thứ giấy tờ gì, vì họ tin sâu sắc rằng trao vàng, tiền cho anh là trao tận tay cho cách mạng... Và bây giờ, anh ngồi đó, gần tám chục tuổi, không vợ, không con, không cửa không nhà, lưng khòng chữ C viết nghiêng, tỉ mỉ cọ rửa những viên gạch vỡ - chẳng hiểu để làm gì – như người bõ già trong truyện „Hương cuội“ của Nguyễn Tuân cọ rửa những viên cuội trắng để tẩm kẹo mạch nha vào dịp tất niên... Miên man nghĩ như vậy và tôi bật phì cười... “Anh Đang!”, tôi nghẹn ngào gọi. Anh quay lại, chớp chớp mắt, răng vàng sỉn, cùn mòn gần nửa vì năm tháng... “Phùng Quán! Chú về đây từ lúc nào thế?”. Hai anh em chúng tôi ôm chặt nhau giữa bậc cầu ao. Và cả hai gương mặt già nua phút chốc đẫm lệ...

*

Cái chái bếp căn hộ độc thân của anh rộng chỉ khoảng 5 mét vuông, chật kín những tư trang, đồ đạc. Mấy cây sào ngọn tre gác dọc ngang sát mái, treo vắt cả chục cái khăn mặt rách xơ như giẻ lau bát, áo may-ô thủng nát, quần lao động vá víu. Cạp quần đeo lủng lẳng một chùm lục lạc làm bằng vỏ hộp dầu cao Sao vàng xuyên thủng, buộc dây thép, bên trong có hòn sỏi nhỏ. Đụng vào, chùm lục lạc rung lên leng keng, nghe rất vui tai. Sau đó tôi được anh giải thích tác dụng của chùm lục lạc: Đi lại trong đường làng những đêm tối trời, anh thường bị cánh thanh niên đi xe đạp, xe máy phóng ẩu đâm sầm vào, làm anh ngã trẹo tay, sầy gối. Học tập sáng kiến của đồng bào các dân tộc ở Việt Bắc, treo mõ vào cổ trâu – trâu gõ mõ, chó leo thang – anh Đang chế chùm lục lạc đeo vào cạp quần, báo hiệu có người để họ tránh xe. Tác dụng thứ hai, quan trọng không kém... Mỗi lần đạp xe trên đường vắng, nghe tiếng lục lạc loong coong ngang thắt lưng, tự nhiên cảm thấy đỡ cô độc. Chính giữa gian chái kê cái tủ gỗ tạp nhỏ, hai cánh mọt ruỗng không khép kín được, khoá một chiếc khoá lớn như khoá nhà kho. Trên nóc tủ, xếp một chồng mũ cối, mũ vải, mũ lá mà ở Hà Nội người ta thường quẳng vào các đống rác. Cạnh tủ là một cái giường cá nhân, bốn chân giường được thống cố thêm bốn chồng gạch. Trên giường một đống chăn bông trần rách thủng, và một xấp quần áo cũ làm gối.... Sát chân giường kê chiếc bàn xiêu vẹo chỉ có hai chân, hai chân kia được thay bằng hai sợi dây thép buộc treo vào tường. Anh nói, giọng Lão Trang: “Một cái bàn bốn chân là một con vật. Khi nó chỉ còn hai chân nó là một con người”. Trên mặt bàn xếp kín các chai lọ, vỏ đồ hộp, hai (... mất nửa dòng...) vài con dao làm bằng mẩu (... mất một dòng...) thuyết minh viên giới thiệu hiện vật trong bảo tàng nghệ thuật: “Nó là loại gạch nung rất già, gần đạt tới tiêu chuẩn của sành sứ cổ, sức nặng và độ bền của nó làm cho các loại chuột, mối, dán phải vị nể”. Bây giờ tôi mới hiểu anh cọ rửa những viên gạch vỡ để làm gì. Dưới gầm bàn là mấy chục đôi dép cao su hư nát, đứt quai, được bó thành từng bó, hai cái vại muối dưa rạn nứt, sứt miệng, một đống bản lề cửa, sắt vụn, đinh còng queo, mẩu dây thép han rỉ... Tất cả những đồ lề đó, phủ lên một lớp bụi tro... Lúc tôi bước vào, gian buồng mờ mịt khói. Anh giải thích: “Giờ này các cô giáo nấu ăn. Bếp tập thể ở sát bên kia tường. Tôi đã trộn rơm với bùn trát những khe hở sát mái, nhưng khói vẫn cứ lọt sang – anh cười - Chịu khói một chút nhưng cũng có cái lợi. Thỉnh thoảng lại được ngửi mùi xào nấu lẫn với khói, cái mũi được bồi dưỡng. Trong việc dở nào cũng có việc hay, và ngược lại”. “Để em đạp xe ra chợ mua cái gì về ăn”. “Thôi khỏi cần. Chú về chơi hôm nay là rất gặp may. Sáng nay tôi vừa chế biến được một mẻ thức ăn ngon vô địch. Chú nếm rồi sẽ biết. Cơm cũng có sẵn rồi. Tôi mới nấu lúc sáng, ủ vào lồng ủ rơm, còn nóng nguyên. À, tôi lại có cả rượu cho chú, rượu cam hẳn hoi, quà của Hội Nhà văn gửi biếu vào dịp Tết năm ngoái... Tôi chỉ mới mời mấy thầy giáo mấy chén, còn đủ cho chú say sưa suốt mấy ngày ở chơi”. Anh xăng xái lấy chùm chìa khoá buộc chung với chùm lục lạc, mở khoá tủ tìm chai rượu. Tôi liếc nhìn vào mấy ngăn tủ. Những xấp quần áo cũ nát để lẫn với những chồng báo, giấy má, sách... ố vàng. Ngăn dưới cùng để rất nhiều chai lọ, vỏ đồ hộp, vỏ lon bia, và nhiều chồng các loại bao thuốc lá. Anh lúi húi tìm một lúc khá lâu mới lôi ra được chai rượu cam còn già nửa: “Đây rồi! Bây giờ già hoá ra lẩm cẩm. Để chỗ này lại tìm sang chỗ kia”. Tôi cười, nói: “Nhìn anh, em cứ tưởng là một nhà quí tộc Nga thời Sa Hoàng, tự tay tìm chọn loại rượu quí cất giữ một trăm năm trong hầm rượu, để đãi khách quí”. Tôi chỉ những chồng vỏ bao thuốc lá, hỏi: “Anh chơi sưu tập vỏ bao thuốc lá à? Thế mà em (... mất một dòng...) vì phải dọn nhặt đem đốt”. Anh kêu lên: “Thế có tiếc không! Lần này chú về trên đó nhớ dặn cô, có vỏ bao thuốc là ngoại cứ cất giữ cho anh Đang, càng nhiều càng tốt. Nó là hàng đối lưu của tôi đấy...”. “Hàng đối lưu?”, tôi ngạc nhiên hỏi. “Để tôi dọn cơm cho ăn rồi tôi giảng cho chú nghe thế nào là hàng đối lưu. Tôi xem ra chú mù tịt về môn kinh tế chính trị học”. Tôi ngắm nhìn căn hộ độc thân đầy khói của anh, hỏi: “Hơn mười lăm năm qua anh vẫn sống ở gian buồng này à?”. “Ngày tôi mới về xã, tôi sống ở trại lợn của Hợp tác xã. Chẳng là cán bộ xã cũng thông cảm hoàn cảnh khó khăn của tôi, nên đề nghị tôi ra đó trông coi giúp như nhân viên thường trực của trại. Ở đó một thời gian. Nhà kho cũng thoáng mát, tôi có thể ăn ở, đọc sách, viết lách kết hợp với trông coi trại. Mỗi mùa hợp tác xã trả công điểm mấy chục cân thóc, mấy chục cân rơm làm chất đốt. Số thóc, rơm này tôi không phải dùng đến, trong mấy năm tiết kiệm được hai ba tạ thóc, hai trăm sáu chục cân rơm cho bà con vay. Ngoài ra, vào dịp tết, Hợp tác xã bồi dưỡng thêm ít thóc nếp, đem lên Hà Nội biếu các chú... Khi bắt tay vào việc dịch thuật lại cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô, tiếng lợn kêu âm ĩ quá làm tôi mất tập trung tư tưởng, nên phải xin thôi công việc trông coi trại, chuyển về đây để được yên tĩnh hơn”.

Còn tiếp...
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Tuấn Khỉ

Tiếp theo...

Những ngày cuối năm, tìm thăm người dựng Lễ đài Tuyên ngôn Độc lập

Bài đăng trên talawas 2/9/2005

Phùng Quán

Anh lôi dưới gầm giường ra một cái xô tôn thủng đáy, đặt lên miệng xô tấm gỗ dán. “Đây là bàn ăn – anh giới thiệu và vần tiếp ra hai cái vại muối dưa sứt miệng – Còn đây là ghế ngồi. Bà con nông dân mình nghèo mà phí phạm thế đấy. Hai cái vại còn tốt như thế này mà đem quẳng bụi tre... Tôi nhặt về, cọ rửa sạch sẽ, lật đít lên, làm thành cái ghế ngồi vừa vững chãi lại vừa mát. Chú ngồi thử mà xem, có khác gì ngồi trên đôn sứ đời Minh?”. Anh dọn ra hai cái đĩa, rồi chọn trong hai cái bát hương đậy viên gạch vỡ gắp ra năm sáu viên gì đó tròn tròn, đen xỉn, nom rất khả nghi. Anh chỉ vào một đĩa, giới thiệu thực đơn: (“Đĩa này là chả cóc, đĩa này là chả nhái. Nhờ ăn) thường xuyên hai thứ đặc sản này mà tôi rất khoẻ, còn khoẻ hơn cả chú”. Anh nhắc trong cái rổ phủ đầy rơm để ở góc nhà, xoong cơm đã ăn mất một góc mà anh giới thiệu vẫn nóng nguyên. Nói đúng hơn là một thứ cháo rất đặc, có thể xắn thành từng miếng như bánh đúc. “Ba năm trở lại đây, tôi phải ăn cơm nhão, nếu ăn cơm khô thì bị nghẹn. Tôi nấu cơm với nước vo gạo nên rất bổ. Chẳng là các cô giáo thường bỏ phí nước vo gạo. Tôi đưa cho các cô cái chậu, dặn đổ nước vo gạo vào đấy cho tôi, để tôi chắt ra nấu lẫn với cơm. Tinh tuý của gạo nằm trong nước vo, bỏ đi thật phí phạm”. “Nhưng cóc nhái đâu ra mà anh bồi dưỡng được thường xuyên thế?”, tôi hỏi. “Ấy chỗ này mới là bí quyết. Phải huy động lực lượng quần chúng, tức là các cháu thiếu nhi. Biết các cháu ở đây thích chơi vỏ bao thuốc lá, nhất là các loại vỏ bao đẹp. Mỗi lần lên thị xã hoặc sang Nam Định chơi, tôi đều nhặt nhạnh về, đổi cho các cháu lấy cóc, nhái. Cũng đề ra tiêu chuẩn hẳn hoi. Một vỏ bao ba số [5] đổi 3 con cóc hoặc 5 con nhái. Các loại khác 2 cóc, 3 nhái. Bởi vậy tôi mới nói là hàng đối lưu, chú hiểu chưa. Mỗi tháng tôi chỉ cần ba bốn chục cái vỏ bao là thừa chất đạm, mà là loại đạm cao cấp… Hôm nào chú về tôi gửi biếu cô, chú Cung [6] , mỗi nhà mấy viên nếm thử. Cô chú ăn thịt cóc của tôi rồi sẽ thấy các thứ thịt khác đều nhạt hoét!”.

Anh rót rượu, chọn gắp viên chả cóc, nhái bỏ vào bát cho tôi, ân cần, âu yếm, trang trọng, làm tôi ứa nước mắt. Anh hỏi: “Chú đi đâu mà lại lặn lội về tận đây, vào lúc tết nhất sắp đến nơi?”. “Em về đây chỉ một mục đích là thăm anh. Hơn hai năm nay không thấy anh lên Hà Nội, chúng em rất lo. Không biết anh ốm đau gì, liệu anh có còn sống không? Về đây thấy anh vẫn khoẻ mạnh, em rất mừng… Anh là nhân chứng của một quá khứ hào hùng của đất nước. Nếu anh chết đi, tàn lụi như cỏ cây, không nhắn gửi gì lại cho các thế hệ sinh sau, theo em là một tổn thất không gì bù đắp được…”. Tôi lấy đưa anh xem số tài liệu liên quan đến ngày Đại lễ mồng 2 tháng 9 năm 1945, vừa sao chụp: (“ Em suy luận ra anh là Trưởng) ban Tổ chức Ngày Độc lập như trong tư liệu hiện còn giữ được. Em muốn được tận tai nghe anh kể lại những kỉ niệm, những hồi ức mà anh cho là sâu sắc nhất… mà nếu anh không dùng đến thì cho em xin”.

Anh im lặng rất lâu, dùng đũa tém lại những mảnh vụn thịt cóc, nhái trong đĩa, gắp bỏ vào bát mình những mảnh khác rớt xuống mâm ván. Anh chăm chú nhìn vào cái đĩa đã tém gọn, như đang gắng đọc những hồi ức in lại trong lớp men sành… Anh chợt nói, mắt vẫn không rời cái đĩa:

“Thấm thoắt thế mà đã bốn mươi bảy năm trôi qua… Tôi còn nhớ như in ngày hôm đó là ngày 28 tháng 8… Tại sao tôi nhớ, vì đó là thời khắc lịch sử phải được tính từng phút một… Năm đó tôi bước vào tuổi băm ba. Chính phủ cách mạng lâm thời họp tại Bắc Bộ phủ, để quyết định ngày lễ ra mắt quốc dân đồng bào… Hôm đó, tôi có việc cần phải giải quyết gấp, nên đến nơi thì phiên họp vừa giải tán. Vừa bước lên mấy bậc thềm thì thấy cụ Nguyễn Văn Tố từ trong phòng họp đi ra. Cụ mừng rỡ chụp lấy tay tôi, nói: “Anh vào ngay đi, cụ Hồ đang đợi anh trong đó”. Tôi theo cụ Tố vào phòng họp. Đó là lần đầu tiên tôi được gặp mặt ông Cụ. Ông Cụ ngồi ở ghế tựa, mặc bộ quần áo chàm, tay chống lên ba toong. Cụ Tố kéo tôi lại trước mặt Cụ, giới thiệu: “Thưa Cụ, đây là ông Nguyễn Hữu Đang, người mà phiên họp quyết định cử làm Trưởng ban Tổ chức ngày lễ”. Cụ Hồ nhìn tôi một lúc với cặp mắt rất sáng, cặp mắt mà về sau này nhân dân cả nước đồn rằng có bốn con ngươi – như muốn cân nhắc, đánh giá người mà Cụ quyết định giao trọng trách. Cụ hỏi tôi với giọng Nghệ pha, rất giống giọng cụ Phan Bội Châu mà có lần tôi đã được nghe: “Chính phủ lâm thời quyết định làm lễ ra mắt quốc dân đồng bào vào ngày mồng hai tháng chín. Chú có đảm đương được việc tổ chức buổi lễ không?”. Tôi tính rất nhanh trong đầu: tháng 8 có 31 ngày, như vậy là chỉ còn 4 ngày nữa thôi... Tôi suy nghĩ cân nhắc trong từng phút. Hình dung ra tất cả những khó khăn như núi mà tôi phải vượt qua... để tổ chức được một ngày đại lễ như vậy, trong khi mình chỉ có hai bàn tay trắng. Tôi nói với Cụ Hồ: “Thưa Cụ, việc cụ giao là (quá khó vì gấp quá rồi”. Cụ Hồ nói ngay: “Có khó thì mới giao cho chú chứ!”). Anh Đang ngẩng phắt lên nhìn tôi. Vẻ già nua cùng quẫn trên con người anh như được trút bỏ hết. Dáng dấp oai phong, khí phách của người chiến sĩ cách mạng luôn luôn đứng ở hàng xung kích lại hiện nguyên hình.

“Như chú biết đấy - giọng anh vụt trở nên sang sảng – tôi là một nhà tuyên truyền, động viên thiên hạ, chuyên nghiệp. Thế mà lần này tôi lại bị ông cụ động viên một cách tài tình, bằng một lời thật ngắn gọn, giản dị! Nghe ông Cụ nói vậy lúc đó tôi thấy trong con người mình bừng bừng khí thế, muốn lập nên được những kì tích, những chiến công thật vang dội... Tôi nói với ông Cụ: “Thưa Cụ, Cụ đã nói như vậy con xin nhận nhiệm vụ. Con xin hứa sẽ cố gắng hết sức để hoàn thành trọng trách”. Cụ Hồ đứng lên, bắt tay tôi, dáng bộ, gương mặt nom rất vui vẻ, bằng lòng: “Thế thì chú trở về bắt tay ngay vào việc đi. Đến sáng ngày kia, chú đến đây báo cáo với tôi công việc được tiến hành như thế nào”. Tôi chào Cụ, ra về, lòng rạo rực lâng lâng... Nhưng khi vừa bước xuống hết những bậc thềm rộng thênh thang của Bắc Bộ phủ, tôi chợt nghĩ ra một điều. Tôi liền quay trở lại phòng họp. Cụ Hồ vẫn còn đứng đó. Cụ hỏi ngay: “Chú còn cần gì nữa?”. “Thưa Cụ, để hoàn thành trọng trách, xin Cụ trao cho con một quyền...”. “Quyền gì, chú cứ nói đi!”. “Thưa Cụ, quyền được huy động tất cả những gì cần thiết cho buổi lễ, về người cũng như về của...”. “Được, tôi trao cho chú cái quyền đó. Nếu ai hỏi huy động theo lệnh của ai, cho phép chú được trả lời: Theo lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh!”.  

Công việc đầu tiên là tôi thảo một thông cáo ngắn gọn – anh gắp thêm mấy viên chả cóc trong bát hương, bỏ ra đĩa rồi kể tiếp - Nội dung như sau: ngày 2 tháng 9 năm 1945. Chính phủ cách mạng lâm thời sẽ làm lễ ra mắt quốc dân đồng bào, tuyên ngôn Độc lập tại vườn hoa Ba Đình. Đồng bào nào có nhiệt tâm, muốn đóng góp sức, góp của vào việc tổ chức ngày lễ lịch sử trọng đại này, xin mời đến Hội quán Trí Tri phố Hàng Quạt gặp Ban tổ chức. Thông cáo được gửi ngay đến tất cả các báo hàng ngày, yêu cầu đăng lên trang nhất, với hàng tít thật lớn chạy hết trang báo (... mất một dòng ...) ngoài chật kín Hội quán. Người ghi tên vào các công tác, người góp tiền, góp vàng, góp vải vóc, gỗ ván. Nhiều người từ chối không lấy giấy biên nhận: “Biết bao anh hùng, liệt nữ đóng góp cho nền độc lập của dân tộc, đâu có lấy giấy biên nhận“, họ nói vậy. Tôi mời mọi người dự cuộc họp chớp nhoáng, và đưa ra ý kiến: Việc cần thiết trước tiên là phải dựng một lễ đài Độc lập thật đẹp, thật lớn, thật uy nghi, xứng đáng với ngày lịch sử trọng đại này, tại trung tâm vườn hoa Ba Đình để Chính phủ cách mạng lâm thời đứng lên ra mắt. Vậy đồng bào nào hiện có mặt tại đây có thể đảm nhiệm trọng trách đó? Một người trạc ngoài ba mươi, ăn mặc lối nghệ sĩ, đeo kính trắng, bước ra nói: “Tôi là hoạ sĩ Lê Văn Đệ. Tôi xin tình nguyện nhận việc dựng lễ đài. Trưa nay tôi sẽ mang bản phác thảo lễ đài đến ban tổ chức xem xét”. Tôi bắt tay hoạ sĩ, nói: “Tôi được biết tên tuổi anh từ lâu và cũng nhiều lần được xem tranh của anh. Tôi xin thay mặt Ban tổ chức hoan nghênh nhiệt tâm đóng góp của anh. Nhưng Lễ đài Độc lập là một công trình kiến trúc, tuy dựng gấp rút, tạm thời, nhưng phải đạt những tiêu chuẩn không thể thiếu của nó như sự vững chắc, sự hài hoà công trình với tổng thể... Nói ví dụ nếu như không vững chắc, mấy chục con người đứng lên, nó đổ sụp xuống thì ngày lễ coi như thất bại. Bởi vậy cần một kiến trúc sư phối hợp với anh”. Một người trẻ tuổi ăn vận chỉnh tề, từ trong đám đông bước ra, tự giới thiệu: “Tôi là kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh [7] , cùng hoạt động trong Hội Văn hoá Cứu quốc với anh Phạm Văn Khoa. Hôm qua tôi được anh Khoa cho biết ý đồ của Ban tổ chức, tôi đã vẽ xong bản đề án thiết kế lễ đài”. Anh Quỳnh trải cuộn giấy can cầm sẵn trên tay lên mặt bàn. Đó chính là toàn cảnh lễ đài Độc Lập mà sau này chú được nhìn thấy in hình trên báo chí. Bản vẽ thật đẹp, thật chi tiết, tỉ mỉ... Lễ đài với tổng thể vườn hoa Ba Đình, vị trí dựng lễ đài, chiều cao, chiều rộng, mặt bằng, mặt cắt ngang, cắt dọc lễ đài, độ lớn các xà gỗ, tổng diện tích mặt ván ốp lát v.v... Sau khi nghe anh Quỳnh thuyết trình, tôi xem xét, cân nhắc rồi đặt bút kí duyệt bản thiết kế, đóng dấu Ban tổ chức. Tôi nói với anh Lê Văn Đệ và anh Ngô Huy Quỳnh: “Ban tổ chức quyết định giao việc này cho hai anh (Các anh cần gì, chúng tôi) sẽ lo chạy đầy đủ, Hiện nay chúng tôi có một kho ba ngàn thước len đỏ [8] , cần dùng bao nhiêu các anh cứ lấy dùng. Lễ đài phải được dựng xong trong vòng 48 giờ đồng hồ. Đúng 5 giờ sáng ngày mồng 2 tháng 9, tôi sẽ đến nghiệm thu. Chúc các anh hoàn thành nhiệm vụ”.



Nguyễn Hữu Đang (1913 - 2007)

http://r25.imgfast.net/users/2511/12/50/00/album/lichsu10.gif
Bản thiết kế Lễ đài Độc lập của kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh

http://r25.imgfast.net/users/2511/12/50/00/album/lichsu10.jpg
Quảng trường Ba Đình ngày Việt Nam tuyên bố độc lập 2-9-1945


Sáng ngày 31 tháng 8, tôi đến Bắc Bộ phủ gặp Cụ Hồ như Cụ đã chỉ thị. Sau khi nghe tôi báo cáo ngắn gọn, đầy đủ về tất cả mọi việc có liên quan tới ngày lễ, Cụ nói giọng hết sức nghiêm trang: “Chú phải nhớ ngày Mồng hai tháng Chín tới sẽ là một ngày lịch sử. Đó là ngày khép lại cuộc Cách mạng tháng Tám, và ngày khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”.

*

“Ông Đang ơi! Ông Đang ơi!”, tiếng con nít gọi nheo nhéo ngoài cửa, ngắt ngang câu chuyện của anh. Tôi nhìn ra, thấy hai chú bé chạc 9, 10 tuổi, mỗi chú cầm một cành tre, đầu cành tre thõng thượt một con rắn nước, mình nhỏ bằng chuôi dao, đầu bị đập dập còn rỉ máu tươi: “Ông có đổi rắn nước không ạ?”. Anh Đang bỏ đũa bước ra cửa, xem xét cẩn thận hai con rắn nước, rồi hỏi: “Các cháu định đổi như thế nào?”. “Ông cho cháu mỗi con hai cái vỏ bao ba số”. “Các chú đừng có giở thói bắt chẹt”, giọng nói vá dáng bộ của anh đã chuyển sang giọng của dịch vụ đổi chác, “Mỗi con rắn này chỉ giá trị bằng hai con cóc. Nhưng thôi, thì ông cũng đành chịu thiệt vậy, mỗi con một vỏ bao ba số, các chú có đổi thì đổi, không đổi thì thôi”. Hai chú bé ngần ngừ một lúc, rồi nói: “Chúng cháu đổi ạ”. Anh quay vào mở khoá tủ, chọn lấy ra hai cái vỏ bao ba số, đưa cho mỗi chú một chiếc, và cầm lấy hai con rắn. Hai chú bé cũng xem xét hai cái vỏ bao cẩn thận không kém ông Đang xem xét hai con rắn. Một chú nói: “Ông đổi cho cháu cái vỏ bao khác, cái này bên trong không có tờ giấy vàng”. Anh cầm lấy cái vỏ bao xem lại, cười: “Được, ông sẽ đổi cho vỏ bao khác. Sau này chú mà làm cán bộ thu mua thì Nhà nước sẽ không phải chịu thua thiệt”.

Anh cầm hai con rắn bỏ vào cái rổ con ở góc nhà, mặt tươi hẳn lên, như người buôn bán vừa vớ được món hời: “Thịt rắn còn bổ hơn thịt nhái. Tối mai tôi sẽ đãi chú món rắn om riềng mẻ. Ăn vào (... mất một dòng..) Tân Đệ.


Còn tiếp...
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Tuấn Khỉ

Tiếp theo và hết

Những ngày cuối năm, tìm thăm người dựng Lễ đài Tuyên ngôn Độc lập

Bài đăng trên talawas 2/9/2005

Phùng Quán

Tôi ở lại chơi với anh Đang ba ngày, thuê một anh phó nháy ở xã trên xuống chụp mấy pô ảnh làm kỉ niệm. Bữa cơm tiễn tôi, anh có vẻ buồn. Vừa dùng đũa tém tém mấy khúc rắn om mặn chát nổi muối trong đĩa, anh vừa nói: “Hiện nay tôi đang cố gắng hoàn thành thiên hồi ký thuật lại tất cả những gì có liên quan đến thế sự, kể từ khi tôi bước chân vào con đường hoạt động cách mạng cho đến những năm tháng gần đây... Trong hồi ký, tôi sẽ đề cập đến những việc mà từ trước đến nay tôi chưa hề tiết lộ với ai. Ví dụ như bản thảo “Tuyên ngôn Độc lập” Cụ Hồ viết... còn hay mất, nếu còn thì bây giờ đang ở đâu... Hoặc cụ định sửa hai câu trong bản “Tuyên ngôn”, nhưng không kịp vì bản chính đã đưa in mất rồi. Là Trưởng ban Tổ chức ngày lễ, tôi phải phụ trách việc in ấn những tài liệu có liên quan đến vận mệnh đất nước này, nhưng ... như chú biết đấy, hiện nay trong Bảo tàng Hồ Chí Minh cũng như Bảo tàng Lịch sử, không có bản thảo “Tuyên ngôn Độc lập” ... Tôi sợ sẽ làm không kịp mất, gần tám chục tuổi đầu rồi còn gì, mà lại không có điều kiện làm việc, ban đem coi như chịu chết, đèn đóm tù mù, đúng là đóm thật”... Anh im lặng một lúc lâu, rồi ngẩng lên nhìn tôi, hỏi tiếp: “Chú có biết điều lo lắng nhất của tôi hiện nay là gì không?”, không đợi tôi đoán, anh nói luôn: “Tôi lo nhất là không biết chết ở đâu. Lúc sống thì tôi ở nhờ nhà ai chẳng được, ở đây cũng như ở trên Hà Nội... Nhưng lúc chết thì người thân mấy cũng làm phiền người ta. Có ai muốn một người không phải ruột ra máu mủ lại nằm chết trong nhà mình? Ngay cả cái chái bếp này cũng vậy, tôi nằm chết sẽ làm phiền đến nhà trường, các thày các cô, các cháu học sinh... Bởi vậy mà hai năm nay tôi không muốn lên Hà Nội. Ở đây, tại quê hương bản quán, tôi đã chọn sẵn chỗ để nằm chết... Chú ra đây tôi chỉ cho, đứng ở đây cũng nhìn thấy...”.

Tôi theo anh ra đứng trên cái trụ xi măng cầu ao cá. Gió mùa đông bắc lạnh thấu xương thổi thốc vào mặt hai anh em. Anh chỉ tay về phía một búi tre gần cuối xóm, đơn độc giữa cánh đồng, ngọn tre đang vật vã trong gió buốt. “Đấy, dưới chân búi tre ấy có một chỗ trũng nhưng bằng phẳng, phủ đầy lá tre rụng, rất vừa người tôi... Tôi sẽ nằm đó chết để khỏi phải phiền ai... Tôi đã chọn con đường ngắn nhất để có thể bò kịp đến đó, trước khi nhắm mắt xuôi tay...”

Trở vào nhà, cả người tôi nổi gai, ớn lạnh, chắc là bị cảm... Tôi dốc hết rượu ra bát uống ực một hơi chống lạnh. Rượu vào lời ra, tôi cất giọng ngâm to mấy câu thơ của Phùng Cung gửi tôi mang về tặng anh:

Mặt ra giông chớp
Rạc mái phong lưu
Gót nhọc men về thung cũ
Quỳ dưới chân quê
Trăm sự cúi đầu
Xin quê rộng lượng
Chút thổ phần bò xéo cuối thôn!


(Tháng 12.1992)
Phùng Quán


--------------------------------------------------------------------------------
[1] Chú thích của Diễn Đàn: Bản in này căn cứ vào bản sao ảnh bản thảo 19 trang viết tay của Phùng Quán, Một vài trang chụp thiếu một hai dòng chót. Chúng tôi phải ghi (…mất một dòng.. ), hoặc khôi phục đoạn câu bị mất đi, nhưng vẫn để trong ngoặc. Xin bạn đọc và tác giả lượng thứ.
[2] Chú thích của tác giả: Thơ Tố Hữu
[3] Chú thích của Diễn Đàn: Đây là cuốn viết lại lịch sử do Stalin chủ biên. Bản dịch ở đây ắt là bản dịch do Nhà xuất bản Sự thật Hà Nội ấn hành, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dịch cuốn này ở hang Pắc bó. Không rõ hai bản dịch này có phải là một hay không.
[4] Chú thích của Diễn Đàn: Bảy mươi tuổi xưa nay hiếm, thơ Đỗ Phủ, Cụ Hồ đã trích dẫn câu này trong Di chúc 1969.
[5] Chú thích của Diễn Đàn: Thuốc lá nhãn hiệu 555
[6] Chú thích của Diễn Đàn: Phùng Cung, nhà văn.
[7] Ghi chú của tác giả: Kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh sau này có thời làm thứ trưởng Bộ xây dựng. Hoạ sĩ Lê Văn Đệ (theo tạp chí Bách Khoa Sài Gòn 1963) sang La Mã, được phong hoạ sư, được chính Giáo hoàng Pie XI giao cho trang hoàng điện Vatican.
[8] Chú thích của Diễn đàn: Số len này lấy được ngày 19.8.1945, khi tấn công chiếm Trại lính khố đỏ ở phố Hàng Bài.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Tuấn Khỉ

Toạ đàm “Sức mạnh của sự đồng thuận”

Phải chấp nhận những khác biệt

Bài đăng trên Sài Gòn Tiếp Thị Ngày 03.09.2012, 09:02 (GMT+7)

SGTT.VN - Trong bài viết nhân Quốc khánh năm nay, Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang khi đề cập đến những thử thách mà đất nước đang đối mặt, đã nhấn mạnh: “Việt Nam đã chứng tỏ không chỉ một lần về khả năng có thể vượt qua những khó khăn tưởng chừng không thể, chúng ta sẽ tiếp tục vượt qua mọi thử thách để thực hiện những mục tiêu lớn lao. Để làm được như vậy, đoàn kết, đồng thuận là một yêu cầu không thể thiếu”.

http://sgtt.vn/ImageHandler.ashx?ImageID=182019
Từ bao đời, người dân Việt đã thấm thía giá trị của sự đồng thuận
trong cuộc mưu sinh. Ảnh: Thanh Hảo


Để hiểu thêm những điều Chủ tịch Nước đề cập qua bài viết, báo Sài Gòn Tiếp Thị đã tổ chức buổi toạ đàm “Sức mạnh của sự đồng thuận”, với sự tham dự của nhiều giới: doanh nhân, nhà nghiên cứu giáo dục, văn nghệ sĩ…

Đồng thuận bằng trái tim chứ không bằng cách giơ tay

Nhà thơ Trần Tiến Dũng mở đầu toạ đàm bằng những lo âu: “Nghĩ về con người Việt Nam tương lai, tôi thấy rõ bi kịch về sự sụp đổ thần tượng. Các bạn ấy không còn một điểm tựa nào cả. Có thần tượng trẻ xuất hiện một thời gian ngắn là sụp đổ, dẫn đến không có điểm tựa để sống. Muốn có sự đồng thuận trong việc tạo dựng những gương mặt thần tượng, phải có những con người tử tế, để lớp trẻ học hỏi từ họ những kinh nghiệm sống. Thần tượng không thể chỉ màu hồng, chung chung, phải có dấu ấn đời sống, có chi tiết riêng, để gần với tuổi trẻ hơn. Chuyện đời tư, chuyện đóng góp cho cái chung, chuyện sai lầm của mỗi người cũng cần được nhìn nhận rõ ràng. Nếu không có đời sống, sẽ chỉ là giả dối. Đừng nhầm lẫn, đánh đồng giữa cái chung và cái riêng. Mặt khác, muốn có đồng thuận, phải thừa nhận sự phá sản, sự suy thoái của những giá trị cũ, xây dựng những cái thật, cái mới, không đánh bóng. Tìm kiếm sự đồng thuận là hướng về tương lai. Giá trị phải mới, luôn cập nhật. Nếu chỉ chà đi xát lại những cái để câu khách, những cái cũ thì chẳng có giá trị gì”.

Ông Nguyễn Duy Thái, tổng giám đốc công ty Thép Việt, chia sẻ từ kinh nghiệm của sự đồng thuận trong phát triển doanh nghiệp: “Dù là trong một công ty hay một đất nước, sự đồng thuận rất quan trọng. Nếu tổ chức đó không hạnh phúc, rất khó đồng thuận. Đường đi đúng nhất là phải tạo hạnh phúc cho môi trường đang sống. Đồng thuận phải được coi như kim chỉ nam trong quan điểm của người quản trị, đi từ văn hoá của người đứng đầu có dám chấp nhận sự khác biệt, chấp nhận sự phản biện không? Hơn ai hết, tôi hiểu, muốn phát triển, ngày càng phải lấy ý kiến công nhân viên nhiều hơn. Khi doanh nghiệp đã lớn mạnh đến một tầm mức nào đó, tôi càng cảm thấy rõ bản thân không làm được tất cả nếu không có người khác. Có hai dạng người quản trị: một dạng vui vẻ, hài hoà, biết lắng nghe; một dạng nghiêm khắc, làm cho người ta sợ. Tôi chọn thái độ hài hoà với mọi người, biết lắng nghe, để nhận được nguồn thông tin thứ hai, từ dưới lên. Kiểu làm cho người ta sợ chỉ có được thông tin một chiều, từ trên xuống, và sẽ chỉ nhận được sự đồng thuận bằng giơ tay, không đồng thuận bằng trái tim”.

Đồng thuận trong những giá trị phổ quát

"Muốn có đồng thuận, phải thừa nhận sự phá sản, sự suy thoái của những giá trị cũ, xây dựng những cái thật, cái mới, không đánh bóng. Tìm kiếm sự đồng thuận là hướng về tương lai. Giá trị phải mới, luôn cập nhật. Nếu chỉ chà đi xát lại những cái để câu khách, những cái cũ thì chẳng có giá trị gì".

Nhà nghiên cứu giáo dục Giản Tư Trung cho rằng ở Việt Nam, muốn đồng thuận phải có hai yếu tố: thứ nhất là có mục tiêu chung, mục tiêu ấy được mọi người hiểu, chia sẻ, nhất trí; thứ hai là phải có những giá trị chung về phẩm hạnh, nhân cách, dân tộc tính của người Việt. Cần có những cuộc thảo luận phê phán thói xấu của người Việt, hướng dân tộc đến những phẩm tính không nằm ngoài giá trị phổ quát của nhân loại, nhưng có đặc điểm riêng. Vai trò lớn nhất của người lãnh đạo là khả năng dẫn dắt, muốn thế, phải có tầm vóc và chiều sâu văn hoá. Nền quản trị xã hội, gia đình, quốc gia phải dựa trên nền quản trị tiến bộ. Xây dựng những phẩm tính có giá trị phổ quát, biểu hiện rõ nét nhất, đã được văn bản hoá, đó là tuyên ngôn nhân quyền của Liên hiệp quốc. Mấy trăm quốc gia đặt bút ký vào đó rồi, đó là một phần những giá trị mà loài người chia sẻ.

Ông Nguyễn Trọng Hạnh – nguyên phó cục trưởng Cục Thuế TP.HCM đề cập đến một thực tế đau lòng: “Đập vào mắt mình ở tất cả các lĩnh vực, phải chăng đã đi tới chỗ hình thành sự giả dối có hệ thống. Những thoả hiệp, nhất trí hình thức có thể đã được sử dụng trong một thời điểm nào đó của lịch sử, nhưng khi trở thành một lối sống, một đại dịch, làm sao tạo được sự đồng thuận thật? Khi tôi đi dạy ở một trường, có học trò hỏi tôi: Tại sao có xã hội mà xe cán đi cán lại một em nhỏ trong khi nhiều người chỉ đứng nhìn thờ ơ? Tại sao nhiều người nghèo thế mà chính quyền không có động thái gì? Phải chăng chúng ta đã quen đến mức thấy bình thường với một xã hội giả dối, vô cảm. Làm thế nào để xác định mục tiêu chung hướng đến phụng sự đất nước, phụng sự xã hội, để tuổi trẻ có thể dấn thân?”

Đề cập đến sự khó khăn, ông Lê Hoàng, tổng giám đốc công ty văn hoá Sài Gòn cho rằng sức mạnh của sự đồng thuận là một quá trình đi từ nhận thức riêng của mỗi người, đến cọ xát với nhau, qua đó tìm đến cái chung về quyền lợi, ngộ ra được chân lý. Nếu không, thì chỉ dừng lại ở sự nhất trí hình thức, thoả hiệp. Còn nhà thơ Nguyễn Duy thì ưu tư: “Đồng thuận giả thì nhiều lắm, đồng thuận thật rất khó triển khai. Chỉ có thể xây dựng sự đồng thuận về nhân văn, về giá trị sống. Thôi thì hãy lặng lẽ làm được điều gì về giá trị sống thì cố gắng làm thôi. Tôi tin là cái thiện sẽ là vĩnh cửu như tôi đã từng viết trong bài thơ Nhìn từ xa... Tổ quốc có đoạn: Dù có sao/đừng khoanh tay/ Khủng khiếp thay ngoảnh mặt bó gối/Cái tốt nhiều hơn sao cái xấu mạnh hơn?/ Những người tốt đang cần liên hiệp lại/ Dù có sao vẫn Tổ quốc trong lòng/ Mạch tâm linh trong sạch vô ngần/ Còn thơ còn dân/ Ta là dân – vậy thì ta tồn tại.

Trần Thị Tuyết Nga, chủ nhân làng du lịch Một Thoáng Việt Nam (Củ Chi) nhấn mạnh: “Đồng thuận về những giá trị sống của Việt Nam trong tương lai là vấn đề cực lớn. Phải hướng tới tương lai hạnh phúc cho dân tộc. Xã hội đang xuống cấp quá lớn về đạo đức. Có một khoảng cách rất xa về tầm nhìn, về lòng yêu nước. Rất nhiều chuyện sát sườn với đời sống con người chưa được các cấp lãnh đạo và toàn dân nhìn nhận một cách thấu đáo”. Xã hội đang lao đi rất nhanh, sự im lặng của một bộ phận xã hội cũng là biểu hiện sự phản kháng trước những vấn nạn. Con người thời đại nào cũng cần có cái neo để sống, để chiến đấu, và cống hiến cho cuộc đời, hướng tới những giá trị chân, thiện, mỹ, chia sẻ những giá trị bằng những người thực, việc thực, không chỉ bằng lý thuyết. Bà kể câu chuyện về những bức xúc của mình khi có cơ hội gặp chính quyền, bà nhấn mạnh: “Cách đây chục năm, tôi có nói với các anh lãnh đạo thành phố rằng, coi chừng việc coi trọng phát triển kinh tế xem nhẹ văn hoá không những sẽ giết chết những giá trị nhân văn mà để rồi sau đó, như người đi một chân vào tương lai, không còn giữ được thăng bằng sẽ đổ vỡ tất cả”. Tiên đoán của bà có vẻ không sai khi đời sống và những giá trị đạo đức, nhân văn đi kèm giờ trở nên tha hoá một cách trầm trọng.

Ở góc nhìn nhân văn, nhà nghiên cứu khoa học Nguyễn Văn Trọng cho rằng mình tìm thấy ở các giá trị tồn tại của con người, ngoài việc đồng lòng tiến lên còn có một thái độ sống mà ở đó sự tự thân đáng được tôn trọng. Chính là cách họ tìm kiếm sự sống sót, tìm kiếm sự thành công cho cuộc đời họ theo một cách lương thiện mà không xâm phạm lợi ích của kẻ khác, không nghiền nát người khác để tìm cho mình một chỗ đứng trong lịch sử phát triển thiếu cân bằng hôm nay. “Nhưng cũng đừng kỳ vọng nhiều quá vào những giá trị cũ. Giới trẻ hiện nay khác hẳn ngày xưa. Xã hội khác, tham vọng khác khiến các giá trị mà ta minh định giờ cũng khác. Chúng ta luôn mong muốn việc làm của chúng ta tác động lên xã hội. Nhưng cũng đừng kỳ vọng nhiều quá, và chúng ta cũng không dễ dàng trả lời được cho các bạn trẻ và những giá trị mới mà chúng đã nêu”, ông nói.

Nhà nghiên cứu triết học Bùi Văn Nam Sơn kết thúc buổi toạ đàm bằng những lời tâm huyết: “Cần dần dần xây dựng sự đồng thuận xã hội về những giá trị mới như nhân quyền, dân quyền, dân chủ, môi trường, môi sinh… hoặc bằng cách tiếp cận mới về những giá trị cũ, nếu không xã hội sẽ phá sản. Trước mắt là sự đồng thuận của toàn xã hội để giữ lấy Biển Đông”.

Hương Xuân


http://sgtt.vn/Uploads/Images/1/c2d/1c2de5540bff14b3a0c568bb7d0a5370.jpg
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu
Chúng ta chỉ có một sức mạnh là đoàn kết toàn dân


Chính quyền cần ý thức rất mạnh về chuyện đoàn kết. Trong một nước từ chính quyền đến tất cả dân chúng không đoàn kết thì sẽ rất yếu. Sức mạnh của chúng ta bây giờ đối với láng giềng là rất yếu về kinh tế, quân sự, chính trị mà chúng ta chỉ có một sức mạnh là đoàn kết toàn dân. Thực hiện như thế nào để ý kiến của toàn dân, lãnh đạo, trí thức yêu nước đều thống nhất thì mới gây được phong trào đoàn kết. Cả một phong trào yêu đất nước của mình, không có nghĩa là yêu cái đất mà yêu con người của mình nữa, yêu con người của mình không có nghĩa là những người sống bây giờ mà còn là những con người hàng ngàn năm xưa đã góp sức xây dựng từ một dân tộc Giao Chỉ nhỏ bé giờ đã trở thành một quốc gia có vị thế. Nhưng cũng không vì thế mà tự mãn.

http://sgtt.vn/Uploads/Images/0/8c8/08c8d2a33c9921ddacfbfc93f6d0006a.jpg
Nhà thơ Việt Phương
Đồng thuận xã hội là sức năng động tự thân của dân tộc


“Đồng thuận” bao hàm “khác biệt”. Không có khác biệt về lý tưởng, mục tiêu, tư duy, tình cảm, hành động... thì không có đồng thuận. Mặt khác hoàn toàn giống nhau thì không phải là đồng thuận, cũng không phải đoàn kết, nhất trí, thống nhất, mà chỉ là rập khuôn, sao chép, thường có sự ép buộc, không tự nguyện.

Ai tạo ra, bảo vệ và củng cố đồng thuận xã hội? Đó là sức năng động tự thân của dân tộc. Sức năng động tự thân ấy dựa trên nền tảng, là lịch sử dân tộc, truyền thống dân tộc, các giá trị tư tưởng, văn hoá của dân tộc, tạo thành bản chất và bản lĩnh dân tộc.

Cùng với sức năng động ấy chính là não trạng, tâm trạng, tầm cỡ, phẩm hạnh, chính sách, pháp luật, hành vi của giới cầm quyền, từ cấp cả nước đến cấp cơ sở.

Từng cộng đồng người, từng tầng lớp người có sự đồng thuận trong từng lĩnh vực khác nhau. Những sự đồng thuận này không đối nghịch, mà thực hiện, bổ sung, phát triển sự đồng thuận xã hội của toàn dân tộc.

Cần tôn trọng và bảo vệ sự khác biệt (đã khác biệt là mang tính xây dựng). Cần khắc phục và loại bỏ sự đối nghịch (mà đối xử văn minh và thu phục đối với người đối nghịch).

Về sức năng động tự thân của dân tộc, cần nhấn mạnh vai trò quyết định của nông dân, của cư dân nông thôn làm nông nghiệp, và rộng hơn, làm kinh tế nông thôn, tạo dựng xã hội nông thôn. Cần phát huy vai trò động lực của ba tầng lớp xã hội đan xen vào nhau: trí thức đích thực, doanh nhân chân chính, tuổi trẻ tâm huyết.

Điều cực kỳ quan trọng là xử lý đúng quan hệ giữa chính sách và việc làm đối nội với chính sách và việc làm đối ngoại: từ đối nội mà đối ngoại, làm chủ đối nội và đối ngoại, không để lực lượng nước ngoài tác động, chi phối đối nội và đối ngoại của nước ta.

Từ đồng thuận xã hội hiện nay, tiến lên đoàn kết dân tộc. Thực sự dân chủ được đến đâu thì thực sự đoàn kết dân tộc được đến đấy. Thực sự dân chủ là dân chủ do dân tộc chủ động thực hiện, lãnh đạo biết làm người đầy tớ trung thành của dân, làm người học trò khiêm tốn của dân, để có thể làm người hướng dẫn tin cậy của dân. Thứ dân chủ do ai đó rộng lòng ban phát cho dân, thì là dân chủ giả hiệu.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Vodanhthi

Bông tai đất sét



TTCT - Mỗi lần đưa con gái về thăm bà nội, tôi cứ phải nghe lời trách: “Sao không đeo bông tai cho cháu tao? Nó mười tuổi rồi mà vành tai cứ trống trơn, khít rịt như vậy còn gì là duyên?”. Và mỗi lần nghe, vợ chồng tôi vừa thấy mình có lỗi, vừa chạnh buồn như bị trách oan.

Con gái được xỏ lỗ tai ngay từ khi sinh ra nhưng con cứ bị dị ứng, ngứa ngáy, nổi mẩn đỏ khi đeo bông tai vào. Thương con, tôi lại tháo ra và lỗ xỏ cứ khít lại... Rồi thì con gái bắt đầu thỏ thẻ: “Xỏ lỗ tai cho con nha mẹ, để bà nội vui”. Ừ thì xỏ, nhưng không đeo bông thì lỗ xỏ để làm gì?

Con thủ thỉ: “Con sẽ đeo bông tai mà. Chịu ngứa vài ngày đầu rồi chắc cũng quen, mẹ hỉ?”. Nhưng được thêm vài ngày nữa thì con gái lại buồn buồn, nói: “Chắc con không đeo bông tai nữa đâu mẹ ơi”, “Tại sao? - tôi hỏi - Con đeo rất đẹp mà”. Con gái rưng rưng: “Mấy bạn trong lớp con nói đó là đồ giả bán đầy ngoài chợ”.

Tôi lặng người.

Tôi không buồn vì con thấy mình bị xúc phạm bởi con đã bắt đầu lớn. Tôi chỉ buồn vì cách bình phẩm của các bạn con, nhưng cũng không thể trách chúng. Có lẽ vì chúng cũng chỉ là nạn nhân của người lớn...

Tôi ôn tồn: “Đôi bông tai nhựa này mẹ mua ở chợ, chỉ nhằm giữ lỗ tai của con, để con sẽ còn đeo những đôi bông tai xinh đẹp, quý giá hơn trong tương lai, lúc con đủ ý thức bảo vệ mình và bảo vệ đôi bông tai đó. Đôi bông tai nhựa rẻ tiền nên nó bảo vệ con”, “Nhưng chỉ ra chợ mua là có” - con phân vân. Tôi suy nghĩ và thấy con có phần đúng. Khi đã mua bằng tiền, người ta ưa nói về trị giá hiện kim để so sánh ít nhiều, hơn kém.

Cuối tuần, tôi bảo con tháo đôi bông tai nhựa ấy ra và nhờ ba cháu dùng kìm dứt đôi khoen kim loại. Mất gần một giờ để tôi nắn hai mặt bông tai bằng đất sét Nhật Bản từ khuôn là cái vỏ nắp bút bi và đính đôi khoen vào. Sau vài mươi phút, đất sét khô cứng lại như nhựa và con gái có một đôi bông tai kiểu... thổ dân. Mắt con gái sáng bừng: “Đẹp và lạ quá mẹ ơi”. “Đúng, không có đôi bông tai thứ hai đâu - ba cháu cười - Có bao nhiêu tiền cũng không mua được, mẹ làm mà”.

Sang thứ hai, đón con lúc chiều tôi hỏi: “Con thích đôi bông tai này chứ?”. Con gái hớn hở: “Dạ con thích lắm. Con nói với mấy bạn là không bao giờ có đủ tiền để mua bông tai này. Đây là đôi bông tai độc nhất, không có đôi thứ hai”... Rồi con gái suy nghĩ giây lát lại thủ thỉ: “Mẹ ơi, đất sét Nhật Bản bán ở đâu vậy mẹ? Mấy bạn con hỏi để kêu bố mẹ mấy bạn ấy mua”.

NGỌC MINH
Mở mắt thì chạy theo cảnh
  Nhắm mắt thì chạy theo mộng.
                 (Ngọc Tuyền Hạo)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Tuấn Khỉ

Vodanhthi đã viết:

Bông tai đất sét


Sang thứ hai, đón con lúc chiều tôi hỏi: “Con thích đôi bông tai này chứ?”. Con gái hớn hở: “Dạ con thích lắm. Con nói với mấy bạn là không bao giờ có đủ tiền để mua bông tai này. Đây là đôi bông tai độc nhất, không có đôi thứ hai”... Rồi con gái suy nghĩ giây lát lại thủ thỉ: “Mẹ ơi, đất sét Nhật Bản bán ở đâu vậy mẹ? Mấy bạn con hỏi để kêu bố mẹ mấy bạn ấy mua”.
https://lh6.googleusercontent.com/-RDsq6QEbWlE/UEVrciTKqMI/AAAAAAAAJq0/8m_cOc7JNho/s433/mom__baby_silhouette.jpg

Bông tai đất sét

Bạc vàng đổi chác bằng tiền
Bông tai đất sét mẹ hiền làm ra.
Đã duy nhất lại khác xa
Những khuôn mẫu giống người ta sáo mòn.

Bông tai đất của riêng con
Dẫu tan nát bụi vẫn son sắt lòng.
Đời này toàn những viển vông
May con có mẹ để không ngại ngần.

Lao vào cuộc sống dấn thân
Đôi bông tai đất mãi cần cho con.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Tuấn Khỉ

Dương Chí Dũng bị bắt giữ sau gần 4 tháng truy nã

Bài đăng trên Vietnam+ 05/09/2012 | 10:15:00

http://www.vietnamplus.vn/avatar.aspx?ID=160844&at=0&ts=300&lm=634824374455770000
Dương Chí Dũng, nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam.
(Nguồn: mps.gov.vn)


Sáng 5/9, Văn phòng Bộ Công an đã có thông báo cho biết sau một thời gian dài khẩn trương tiến hành các biện pháp truy bắt, ngày 4/9, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã bắt giữ bị can Dương Chí Dũng, nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines).

Bị can Dương Chí Dũng bị khởi tố về tội “cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” theo Điều 165, Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, trước khi Cơ quan điều tra tiến hành lệnh bắt tạm giam, khám xét nơi ở, nơi làm việc, Dương Chí Dũng đã bỏ trốn.

Cơ quan điều tra đã kiên trì thuyết phục gia đình, thân nhân của Dương Chí Dũng để vận động đối tượng ra tự thú nhưng không có kết quả.

Ngày 18/5, Cơ quan điều tra đã phát lệnh truy nã đặc biệt số 01/C48-P2 trong toàn quốc, đồng thời phối hợp với tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế (Interpol) ban hành lệnh truy nã quốc tế đối với Dương Chí Dũng.

Ngay sau khi bắt giữ Dương Chí Dũng, Thượng tướng Trần Đại Quang, Bộ trưởng Bộ Công an đã khen thưởng kịp thời các tập thể, cá nhân có thành tích trong chiến công này.

Cơ quan điều tra Bộ Công an kêu gọi những cá nhân, tổ chức có hành vi che dấu, tiếp tay cho Dương Chí Dũng bỏ trốn nếu ra tự thú sẽ được hưởng lượng khoan hồng của pháp luật./.

(TTXVN)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Vodanhthi

Sách giáo khoa lớp Một: Chữ một đằng, hình một nẻo!



NLĐ - Cuốn sách giáo khoa (SGK) tiếng Việt lớp 1 của NXB Giáo dục, do Đặng Thị Lành chủ biên cùng các cộng sự thực hiện đang gây những tranh cãi về việc hình vẽ mơ hồ, không thể hiện rõ nội dung truyền đạt, gây khó cho giáo viên (GV) khi giảng dạy.

Hình và chữ vênh nhau
Ví dụ, bức tranh về gia đình nhưng chỉ có mẹ, không có cha. Tập đọc về ao, hồ, giếng nhưng trong tranh không có… hồ, đôi chỗ còn thể hiện sai nguyên tác… là một trong rất nhiều bất ổn ở cuốn SGK này.

GV một trường tiểu học phân tích: Với trẻ lớp 1 thì việc nhận mặt chữ, luyện viết, tập đọc gắn liền với tranh minh họa. Muốn vậy, tranh ảnh phải nhiều, sống động, rõ ràng, cụ thể để giúp trẻ tiếp thu nhanh, nhớ lâu. Nhiều trẻ chỉ cần nhìn vào tranh là nhớ nội dung bài học và có thể tập đọc, tập viết. Việc sử dụng tranh minh họa ở lớp 1 là rất quan trọng nhưng tiếc là trong SGK tiếng Việt chưa thỏa mãn được những yêu cầu đó.

Bà Bùi Thị Dung, GV lớp 1/1 Trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi (quận 4 - TPHCM), cho biết: “Phần lớn GV phải sử dụng thêm tranh minh họa bên ngoài để trẻ dễ hình dung và tiếp thu nhanh hơn”. Ở một góc độ khác, một GV phân tích: “Ngành giáo dục đang kêu gọi giảm tải cho GV nhưng riêng chuyện SGK thể hiện chưa đủ, sai sót cũng khiến GV tốn không ít thời gian để làm thêm đồ dùng dạy học, nghiên cứu làm sao để có cách truyền đạt hiệu quả khi thời gian trên lớp có hạn”.

Ngoài số lượng hình ảnh không đáp ứng đủ, nhiều bài học trong sách còn thể hiện độ vênh giữa hình vẽ với nội dung cần truyền đạt. Chẳng hạn, ở bài số 8 (tập 1, trang 18) muốn học sinh nhận ra từ “hè” nhưng bức tranh minh họa lại là cảnh mọi người đang đi…tắm.

Nhiều GV cho biết khi dạy đến bài này, họ phải rất khó khăn để giải thích cho trẻ biết giữa “hè” và đi tắm có liên quan gì với nhau. Ở bài 26, trang 55 có đoạn: Bé bị ho, mẹ cho bé ra trạm y tế xã khám bệnh, trong khi tranh minh họa lại đề: “Trạm y tế” khiến trẻ rất khó hình dung y tế xã và trạm y tế giống hay khác nhau.

http://nld.vcmedia.vn/m4Fjgfo2ZrABwwr6SfrKc8tCmmXWK/Image/2012/09/04/11chot1_642db.jpg
Một ví dụ về cách viết hoa tùy tiện và sự không thống nhất về hình ảnh - chữ



Ở bài Vâng lời cha mẹ (bài 53, trang 109), bức tranh lại chỉ có mẹ mà không có cha. “Chẳng khó khăn gì để đưa thêm hình ảnh người cha vào bức tranh để trẻ dễ nhận biết. Hơn nữa, nếu tranh minh họa đầy đủ, GV sẽ có thời gian để mở rộng thêm ý nghĩa, ví dụ ngoài việc phải vâng lời cha mẹ, bé còn phải vâng lời những ai…” - một GV Trường Tiểu học Chi Lăng (quận Gò Vấp - TPHCM) phân tích.

Viết hoa, viết thường tùy tiện
Theo các nhà sư phạm, dù đến bài số 28, trẻ mới học về chữ thường và chữ hoa nhưng điều đó cũng không có nghĩa ở các bài học trước đó được phép viết hoa, viết thường tùy tiện. Nên hiểu rằng ở lứa tuổi này, trẻ sẽ ghi nhớ bài học thông qua những ấn tượng ban đầu. Nếu cùng một sự vật, cùng là tên người nhưng chỗ này viết hoa, chỗ khác viết thường sẽ khiến trẻ nhầm lẫn đó là hai sự vật, hai người khác nhau.

Đơn cử, ở bài 27, trang 57 viết: “quê bé hà có nghề xẻ gỗ, phố bé nga có nghề giã giò”. Trong khi đó, ở trang 73, bài 35, ở phần tập đọc lại có đoạn viết hoa: “Buổi tối, chị Kha rủ bé chơi trò đố chữ”. Ở trang 87, bài 42, phần tập đọc có đoạn: “Buổi trưa, Cừu chạy theo mẹ ra bờ suối. Nó thấy bầy hươu nai đã ở đấy rồi”. Trong cùng một ngữ cảnh nhưng viết hoa chữ Cừu nhưng hươu, nai lại không viết hoa, trong khi chúng đồng đẳng trên cùng một đoạn ứng dụng.

Hoặc ở bài 32, tập 1, trang 67 có đoạn: Tập đọc: “Chú Bói Cá nghĩ gì thế? Chú nghĩ về bữa trưa”. Luyện nói: “Sẻ, ri, bói cá, le le”. Cùng là chim Bói Cá nhưng vừa viết hoa vừa viết thường khiến trẻ sẽ nghĩ đó là hai con vật khác nhau.


http://nld.vcmedia.vn/m4Fjgfo2ZrABwwr6SfrKc8tCmmXWK/Image/2012/09/04/11chot2_a9fe1.jpg



Một số bài học khác thể hiện cách viết hoa, viết thường không thống nhất: Sáo Sậu với châu chấu, cào cào, Sói và Cừu  (bài 43, tập 1, trang 89); chuồn chuồn (bài 50, tập 1, trang 103); Mèo, Chuột (bài 74, tập 1, trang 151). Bên cạnh đó, một số danh từ chung như: Gấu mẹ, Thỏ mẹ, Chuột nhà, Chuột đồng được viết hoa (bài 44, trang 91, bài 75 trang 153, tập 1); trong khi không ít từ chỉ một nhân vật cụ thể trong truyện (chim chích, ngỗng vàng, công) lại vẫn viết thường.

Bài và ảnh: ĐẶNG TRINH


Dễ gây phản cảm


Theo TS Bùi Thanh Truyền, giảng viên Khoa Tiểu học Trường ĐH Sư phạm Huế: Phải có sự nhất quán giữa chữ và hình vẽ trong suốt nội dung chương trình, tránh tình trạng vênh lệch ngay trong nội bộ của hai phương diện này bởi nó sẽ dễ gây ra sự phản cảm, cản trở sự lĩnh hội kiến thức về ngôn ngữ tiếng Việt của học sinh và sự thiếu đồng thuận từ phía người dạy lẫn người học. Muốn vậy, việc thiết kế hệ thống tranh ảnh cần gọn rõ, đơn giản, không rườm rà, đặc biệt phải gắn liền với nội dung chữ nói riêng, phù hợp với các nội dung dạy học trong chương trình nói chung. Tranh ảnh từng bài phải làm nổi bật yếu tố trung tâm của bài học.
Mở mắt thì chạy theo cảnh
  Nhắm mắt thì chạy theo mộng.
                 (Ngọc Tuyền Hạo)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 100 trang (1000 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [70] [71] [72] [73] [74] [75] [76] ... ›Trang sau »Trang cuối